Chương 469: Không hủy Trường Thành không phải hảo hán
Ngược về thời Minh
Nguyệt Quan14-02-2024 22:49:52
- Hoàng thượng, ngài ăn chút gì đi.
Đường Nhất Tiên khẽ mở cửa, bưng một mâm thức ăn lặng lẽ đi vào, cánh cửa nhẹ nhàng khép hờ, chỉ thấy Chính Đức Hoàng đế nghồi trước bàn không nói một lời.
- Hoàng thượng, lần này ngài lại giận gì vậy? Trước tiên ăn một chút đi.
- Ừ!
Đường Nhất Tiên thấy y không xê dịch, khẽ thở dài, gắt gỏng nói:
- Ngài không ăn không uống là muốn thành tiên sao?
- Ừ!
Đường Nhất Tiên cả giận:
- Ngài ngoài trừ ừ ừ ừ thì không biết nói cái khác sao.
Chính Đức:
- A...
Đường Nhất Tiên tức giận vô cùng:
- Vĩnh Phúc và Tương Nhi cầu kiến, ngài không gặp cũng thôi đi, Thái hậu ngài cũng không gặp, đây là trái với lẽ thường, luôn ương ngạnh như vậy không ổn thỏa nha. Cho dù nói thế nào, đại ca có công với xã tắc, bây giờ bị ngài bỏ tước giam lỏng, triều dã không rõ chân tướng, chắc chắn cho rằng Hoàng thượng kiêng kỵ công thần, bất lợi với thanh danh của Hoàng thượng nha. Hơn nữa, Hoàng thượng còn có chí hướng của Tần Hoàng Hán Vũ, lần này lại làm trái tim thần tử rét lạnh, ảnh hưởng rất lớn đến triều đình.
- Ôi!
Chính Đức thở dài nặng nề, cuối cùng cũng mở miệng nói chuyện:
- Dương Lăng, làm rét lạnh lòng trẫm! Trẫm và Dương khanh đối xử chân thành với nhau, vui buồn có nhau. Đối với Dương Lăng, trẫm dùng người mình biết, dùng mà không nghi ngờ.
Từ khi hắn phụ chính đến nay, cải cách chính trị, thao luyện diễn võ, thúc đẩy nông thương, bình định mối loạn trong ngoài, mở rộng giang sơn xã tắc, công huân to lớn, trước nay không có ai. Trẫm vốn muốn cùng hắn vì người đời, vì bá quan mà làm điển hình cho quân thần hòa thuận, cùng nhau phò trợ, không rời nửa bước! Không ngờ không ngờ trẫm không nghi kỵ hắn, hắn lại nổi lên dị tâm với trẫm mà!
Nội Các và lục Bộ cửu Khanh cùng một vài trọng thần trong triều đứng ngoài cửa, nghe hoàng thượng nói xong thì biến sắc:
- Lẽ nào lẽ nào thật sự như trong lời đồn, Dương Lăng có ý phản? Trời ạ! Bây giờ số người đi theo phe phái của Dương Lăng trong triều không ít nha, hắn lại là đại thần mà Hoàng đế tín nhiệm nhất, nếu hắn có ý phản, Hoàng thượng còn có thể tin tưởng ai? Cuộc đại thanh trừ này mà tiến hành, chỉ e chém giết liên lụy rất lớn, cho dù là thời Hồng Vũ cũng không bằng. Đến lúc đó ngàn vạn đầu người rơi xuống, xử trí mười năm không ngớt, cho dù là những đại thần như bản thân mình, e rằng cũng bị Hoàng thượng bụng đầy nghi ngờ sao trảm cả nhà.
Có đại thần đã thay đổi sắc mặt, ngày trời lạnh giá mà mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên trán.
Chính Đức Hoàng đế đấm lên bàn, ngoài cửa liền có mấy vị đại thần run rẩy.
Chỉ nghe Chính Đức Hoàng đế rít gào nói:
- Trẫm phong hắn làm Vương, muốn phong Sơn Đông làm phiên địa của hắn, thay trẫm trấn thủ, hắn có thể cùng trẫm coi giữ gần trong gang tấc không tốt sao? Hắn hắn lại dám cự tuyệt ý chỉ của trẫm, nói cái gì mà phong vương khác họ, đã là trước nay chưa có, không dám nhận hậu thưởng nữa, chỉ nguyện làm một Vương gia tiêu dao trong Kinh thành.
Hừ! Hắng đang tỏ rõ cõi lòng với trẫm, đang tránh họa à. Hắn cho rằng trẫm đang thăm dò hắn có dã tâm hay không, e sợ hắn công cao lấn chủ, một ngày nào đó sẽ loại bỏ hắn, trẫm đau lòng thế nào chứ? Không chỉ hắn, văn võ Đại Minh ta, chỉ cần là người có công với xã tắc, lập được đại công, trẫm đều phải thưởng.
Chính Đức đứng phắt dậy, cất cao giọng nói:
- Mở biển thông thương, giao lưu các nước, khiến trẫm mở rộng tầm mắt, thiên hạ rộng lớn, đâu chỉ có Trung Quốc? Nơi cực xa tám hướng há đều là đất hoang? Trẫm muốn cùng chúng thần thật lòng với nhau, cùng cai trị Đại Minh, tạo ra một Đại Minh giàu mạnh nhất, tạo ra một thiên hạ không biên giời trên bản đồ.
Văn võ công huân oanh oanh liệt liệt bắt đầu từ hôm nay sẽ không chỉ có thời kỳ khai quốc mới có thể để lại tiếng thơm muôn đời. Trên Lăng Yên Các của Đường Thái Tông có hai mươi bốn hiền tài, trẫm cai trị thiên hạ, người đầy hứa hẹn nếu tận hết khả năng, ngày sau phong vương phong hầu, cắt đất phong cương, tương lại trẫm cũng muốn xây dựng một Lăng Yên Các. Trẫm hi vọng văn thần võ tướng vì trẫm cai trị nội chính, gầy dựng công lao bên ngoài dù có hai trăm bốn mươi người, hai ngàn bốn trăm người đều có thể xếp vào trong đó. Đây chính là chí hướng của trẫm.
Đáng giận, lẽ nào từ xưa quân thần chỉ có thể nghi kỵ lẫn nhau? Lẽ nào Đế vương chỉ có thể buộc chặt toàn bộ những người tài có thể làm mãnh hổ, làm hùng ưng ở bên cạnh mình làm chó giữ nhà, giang sơn như vậy có thể củng cố sao? Sớm muộn gì cũng bị người ngoài đoạt mất. Nhưng trẫm tin tưởng hắn như vậy, không ngờ hắn lại lo lắng lòng trẫm mang nghi kỵ!
Được! Chẳng phải ngươi sợ được thỏ giết chó sao? Trẫm làm như tâm nguyện của ngươi! Trước tiên giết Dương Lăng ngươi!
Chúng văn võ ngoài cửa nghe thấy, lúc này mới biết chuyện đã xảy ra. Hóa ra Hoàng đế muốn phong Sơn Đông làm phiên địa cho Dương Lăng, nhưng Dương Lăng lại lo lắng một phiên vương khác họ như mình cai quản phiên địa, sẽ khơi dậy lòng nghi ngờ của Hoàng đế và văn võ cả triều, cuối cùng dẫn đến họa sát thân, cho nên kiên quyết không nhận, lần ày lại làm tổn thương tình cảm của Hoàng thượng.
Nếu là vậy, vậy thì an toàn, ít nhất bản thân mình sẽ không bị thanh trừ. Một vài đại thần vội móc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán, chỉ cảm thấy mồ hôi sau lưng thấm y phục, gió thổi vào mát lạnh.
Có điều bọn họ lại cảm thấy băn khoăn của Dương Lăng cũng có đạo lý. Trên thực tế, ai cũng đều cho rằng hắn được phong vương thì sẽ làm một tiêu dao vương ở Kinh thành đến hết quãng đời còn lại, để hắn đến phiên địa đã là không thể tưởng tượng được rồi, hơn nữa lại còn phong ở Sơn Đông. Sơn Đông cách Bắc Trực Lệ quá gần, phong cho một vương khác họ ở nơi này, lỡ như có dị tâm thì làm sao đây?
Huống chi Sơn Đông còn quản cả Liêu Đông Vệ, một bắc một nam vừa hay kiềm chế Kinh sư. Hiểm địa như vậy, há có thể phong cho một người khác họ? Nhớ ngày đó Chu Nguyên Chương phong thưởng trọng thần, Mộc Anh là bộ hạ theo chân ông ta chinh chiến sa trường, hơn nữa còn là con nuôi của ông ta, còn phong cho đất Vân Nam xa xôi. Hoàng thượng làm vậy quá mức lỗ mãng, khó trách Dương Lăng cự tuyệt.
Có điều chúng thần nghe mấy câu này của Chính Đức Hoàng đế xong lại cảm thấy nhiệt huyết sôi trào. Hoá ra đương kim Hoàng thượng có chí hướng to lớn như vậy, thử hỏi kẻ làm thần tử có ai không muốn cắt đất phong cương, ai không muốn ghi tên sử sách. Nghe Hoàng thượng nói như vậy, chẳng phải là chỉ cần bản thân làm tốt, thì ai ai cũng có cơ hội sao?
- Ôi! Hoàng thượng, ngài khổ tâm một phen, nhưng cho dù ngài và đại ca thiếp chân thành đối đãi nhau, nhưng không thể bảo đảm thần tử trong thiên hạ đều nghĩ như vậy nha? Thật sự phong huynh ấy đến Liêu Đông, lời đồn ngợp trời, trung thực như Chu Công thì thế nào chứ? Khi lời đồn lan truyền, chẳng phải ai ai cũng đều tin tưởng huynh ấy lòng mang dã tâm sao? Hơn nữa, Hoàng thượng có hùng tâm tráng chí như vậy, chỉ cần bày tỏ lòng thành, thấu hiểu tâm kết của đại ca thiếp, huynh ấy sẽ chỉ càng thêm cảm kích. Nếu bởi vì tức giận huynh ấy không thể hiểu thánh ý, trừng phạt qua loa như vậy, bá quan sẽ thế nào đây? Đây chẳng phải là giết lầm trung thần sao? Ai còn dám tận tâm góp sức cho Hoàng thượng đây? Hoàng thượng, ngài suy nghĩ lại đi.
Đường Nhất Tiên thở dài một tiếng, xoay người đi ra khỏi phòng, cài cài chặt cửa lại, lúc này mới đưa tay ra hiệu đừng lên tiếng, dẫn theo chúng văn võ rón ra rón rén đi đến dưới hành lang, lúc này mới thở dài một tiếng, đoạn nói:
- Chư vị đại nhân, các ngài nhìn thấy rồi chứ? Ôi! Hoàng thượng tin tưởng đại ca ta nhất, hơn nữa còn muốn mượn việc này làm một tấm gương tốt cho quần thần, để Đại Minh ta không ngừng phát triển.
Nhưng, đại ca ta e ngại nhiều điều, Hoàng thượng có kiên trì hơn nữa, huynh ấy sẽ lại cự tuyệt lần nữa. Tính cách của Hoàng thượng chư vị đại nhân cũng biết rồi, giận như vậy, kết quả giam lỏng đại ca ta, không phải nói muốn thì có thể hiểu được tâm tư của huynh ấy, ban nghiêm trị. Tính tình này của Hoàng thượng, đã cương lên thì chín con trâu cũng không kéo lại được. Ta cũng khuyên giải nhiều lần, Hoàng thượng lại không chịu nghe.
Chúng đại thần chỉ cần biết mấu chốt ở đâu thì biết nên hốt thuốc đúng bệnh thế nào rồi. Vốn dĩ hai người cầm đầu cãi nhau trở mặt, bọn họ căn bản không biết xảy ra chuyện gì, ai biết cái hố nà sâu đến thế nào, ai mà dám nhảy vào trong đó chứ. Lần này trong lòng đã nắm chắc rồi, bọn họ cũng không nóng nảy, chúng đại thần liền khom người nói:
- Đa tạ Quý phi nương nương, chúng thần đã biết nguyên do, tự nhiên sẽ nghĩ cách khuyên giải Hoàng thượng.
Một đám quan viện vội vàng cáo từ, còn chưa ra khỏi Báo phòng ai ai cũng giũ tay áo, quay thành một vòng trên nền tuyết, mồm năm miệng mười nghị luận mấy câu, sau đó ai về nhà nấy đốt đèn châm dầu viết tấu chương.
Đường Nhất Tiên cười khanh khách trở lại trong phòng Chính Đức. Chính Đức ném một cái chân vịt đã gặm một nửa vào đĩa, cười hì hì nói:
- Đều đi rồi?
- Vâng!
Đường Nhất Tiên vươn tay vuốt sống mũi y, cười nói:
- Phu quân giỏi của thiếp, thật sự là giả rồng giống rồng, giả hổ giống hổ, cho dù là làm Hoàng đế hay là diễn trò thì đều sinh động như vậy!
- Đó là dĩ nhiên.
Chính Đức phun ra một cái xương sườn nhỏ, ngạo nghễ nói:
- Khi ta còn trong cung vốn dĩ thường hay học diễn mà.
- Ừm, nói ngài béo ngài liền thở dốc. Lần này ngay cả Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần và Tương Nhi đều giấu, cẩn thận các muội ấy biết được chân tường rồi sẽ tìm ngài tính sổ.
- Chuyện đó không liên quan đến ta, để Dương Lăng tự mình giải quyết.
Chính Đức lập tức đẩy đi mất, không chút nghĩa khí nói.
- Được rồi, nàng cũng đừng bận rộn nữa. Bây giờ nàng đang mang hoàng tử của trẫm, nhanh chóng nghỉ một lát đi.
Chính Đức đứng dậy, đỡ lấy Đường Nhất Tiên ngồi xuống.
Đường Nhất Tiên cười khanh khách nói:
- Sao lại chiều chuộng như vậy chứ?
Nói tới nói lui, sự quan tâm lo lắng của Chính Đức vẫn khiến nàng cảm thấy ngọt ngào vô cùng.
Chính Đức thở phào một hai. Chiêu khổ nhục kế lần này vừa diễn, không đến ngày mai, thì có thể lan truyền đến toàn bộ chúng quan viên văn võ các môn lộ. Đợi khi tấu chương cầu tình của bá quan được dâng lên, lại thuận thế tha thứ, như vậy chuyện Dương khanh độc lãnh binh quyền, viễn chinh tái bắc sẽ không còn nhiều lực cản như vậy. Bằng không, cắt đất phong cương, không biết sẽ có bao nhiêu người cả ngày huyên náo bên tai mình nữa.
Lần này ai ai cũng cảm thấy Dương Lăng bị phạt trục xuất. Viễn chinh tái bắc đối lập vói phân phong Sơn Đông, cho dù hành động của hắn ở đó có lớn một chút cũng sẽ không có bới móc lung tung, nói không chừng còn có kẻ vui sướng khi người gặp họa nữa.
Chính Đức khẽ nở nụ cười.
Tin đồn cắt giảm biên chế lan truyền, khi lòng người trên dưới khắp công ty đều bàng hoàng, thì tuyên bố ông chủ muốn cùng nhân viên cùng nhau đồng tâm hiệp lực không cắt giảm biên chế, nhưng phải cắt giảm tiền công trên diện rộng cho đến khi tình hình công ty chuyển biến tốt đẹp. Vốn dĩ nhân viên bởi vì cắt giảm tiền công mà tinh thần quần chúng dâng trào mãnh liệt ngay lúc này không chỉ không bực tức đầy bụng, mà còn tràn đầy cảm kích. Đây chính là chuyện xảy ra ở thời hiện đại
Nhưng việc thấu hiểu và lợi dụng tính cách con người lại không phải là phát minh của người hiện đại.
Việc đưa ra khổ nhục kế này chính là từ bút tích của Chính Đức, để cổ vũ lòng bá quan, để khuyến khích chí văn võ, cũng là để giải quyết tận gốc, chặt đứt lời đồn có thể xảy ra cho Dương Lăng, để hắn yên tâm thực hiện trọng trách của mình, chứ không phải là lúc nào cũng lo lắng phản ứng của triều dã.
Cổ nhân có trí tuệ của cổ nhân.
Chính Đức Hoàng đế không khỏi hồi tưởng lại cuộc nói chuyện kia giữa hai người, nhớ lại tình cảnh từ sau "Đế lăng phong thủy án", lần duy nhất bản thân mình cảm thấy vô cùng đau lòng nhức óc, nổi giận dùng đùng với hắn.
- Hoàng thượng chớ giận, một khi nói ra, Hoàng thượng nhất định sẽ giận dữ.
- Trẫm giận dữ? Trẫm đâu chỉ giận dữ, trên khốn kiếp ngươi!
Chính Đức cực kỳ giận, liên tục gật đầu nói:
- Tốt, tốt lắm, trẫm vốn cho rằng quân thần chúng ta đồng lòng, không nghi kỵ lẫn nhau, có thể làm một đôi huynh đệ nâng đỡ lẫn nhau!
Hiện tại địa vị của khanh cực lớn, quyền thế ngút trời, khanh bắt đầu sợ hãi, sợ trẫm coi khanh như cái đinh trong mắt, không buông tha cho khanh. Trẫm phong khanh làm vương là vì công lao bất phàm mà khanh lập được. Trẫm đang muốn thi triển quyền cước, làm một quân vương đầy hứa hẹn, đang cần sự giúp đỡ bảo vệ của khanh, khanh lại muốn đưa mình sung quân đến nơi bắc hải cực kỳ lạnh giá không phải cho người ở kia để tránh họa, khanh muốn người trong thiên hạ thóa mạ sau lưng trẫm sao?
Dương Lăng cười khổ một trận, luôn miệng nói:
- Hoàng thượng, đó đều là những chuyện mà người viết sử kiến thức nông cạn khoác lác cả, tin rằng là Tô Võ sau khi lao động trở về vì muốn khoe khoang những cực khổ mà mình đã chịu đựng, nên có chút khoác lác khuếch đại. Ở đó có thể rất lâu, rất lâu trước kia là như vậy, bây giờ ở đó không chỉ có thành trì, có cư dân, còn đất đai phì nhiêu thích hợp trồng trọt, có rừng rậm, thảo nguyên và hồ nước, hơn nữa thời tiết không tệ như vậy, mùa đông lạnh một chút, nhưng vào mùa hè thì nhiệt độ không khác gì thành Nam Kinh cả.
- Ở đó có là thiên đường trẫm cũng không cho khanh đi.
Ngón tay của Chính Đức đã sắp đụng vào mũi của Dương Lăng, bức hắn không thể không ngửa người ra phía sau.
Chính Đức cười lạnh nói:
- Khanh thành thành thật thật ở lại trong thành Bắc Kinh cho trẫm! Đợi đến ngày trẫm sắp cạn tuổi thọ, trẫm muốn Uy Võ Vương Dương Lăng khanh quỳ gối trước mặt trẫm xin lỗi, khanh nhìn lầm Chu Hậu Chiếu trẫm rồi! Dương không phản Chu, Chu không trảm Dương, ngoài trừ điều này, Chu Dương vĩnh viễn là một thể! Trẫm muốn khanh nhìn xem, có phải người làm thiên tử thì nhất định nghi kỵ vô tình, thiên tính lương bạc không!
- Hoàng thượng!
Vẻ mặt Dương Lăng thống khổ, hắn ngoẹo đầu vòng qua ngón tay của Chính Đức, sau đó lại cúi xuống bái một cái, cung kính nói:
- Hoàng thượng chịu nghe thần nói hết lời không?
- Trẫm chặn miệng của khanh sao? Có rắm thì thả đi!
- Hả?
- Nói đi.
Chính Đức trút giận xong, đặt mông ngồi lên tấm đôn, nheo mắt liếc hắn một cái:
- Ta coi ngươi còn muốn phóng cái rắm gì!
Dương Lăng cười khổ một tiếng, hắn thản nhiên bẩm báo với Chính Đức nỗi lo lắng của mình, không chút che giấu tâm cơ, mà cơn giận của Chính Đức lại chuyển thành ủy khuất, bi phẫn vì Dương Lăng lại có nghi kỵ như vậy với y, nhận thức này khiến Dương Lăng rất cảm động.
Dương Lăng không có cách nào khác mà nói:
- Hoàng thượng, lo lắng này coi như là thần lo lắng dư thừa được chưa? Thần nói vậy, chỉ là nói ra một khả năng thôi, cư xử chân thành mà nói cho Hoàng thượng nghe, thần xét thấy tình nghĩa quân thần này với Hoàng thượng nặng như Thái Sơn, cho nên mới lo lắng nặng nhẹ. Ừm, lần này coi như là đa sầu đa cảm, buồn lo vô cớ vậy. Nếu thần thật sự có lòng nghi kỵ với Hoàng thượng, Hoàng thượng nghĩ mà xem, thần dám bẩm báo đúng sự thật sao?
Sắc mặt Chính Đức dễ nhìn một chút, Dương Lăng lại nói:
- Việc này cũng giống như là nghe hí kịch vậy, những thứ hay ho đều để ở phía sau, dâng món ăn cũng thế, món chủ đạo không lý nào lại bày lên trước. Thần nghĩ làm như vậy, thật ra còn có một lý do càng quan trọng hơn không thể không làm như vậy. Hoàng thượng, thần có thể đứng dậy nói không.
Chính Đức hừ một tiếng, bĩu môi về phía đối diện:
- Ngồi đi!
- Tạ ơn Hoàng thượng!
- Không ai châm trà cho khanh đâu, tỏ vẻ làm gì, trẫm phải hầu hạ khanh sao? Muốn uống thì tự mình rót đi.
- Ơ, tạ ơn Hoàng thượng.
- Được rồi, khanh bưng món chính kia lên đi.
- Hoàng thượng, trước tiên thần nói với Hoàng thượng về thế cục của Đại Minh chúng ta. Trước nội sau ngoại, thần nói nội trước. Triều ta cải cách cao trị, thuế phú, đất đai, quân đội, bình định nội loạn, chấn hưng công thương, mở thành phố biển, mượn tích lũy của triều Tiên đế mà khai mở chấn hưng bản triều, dân giàu nước mạnh, quân đội hùng mạnh chỉ trong tầm tay, đây là nội chính.
Nói về ngoại, tình thế bên ngoài, phía tây, bên trong thì ân uy đồng thời vỗ về các tộc, bên ngoài thì dùng thông thương kinh tế để trói buộc Tây Vực, hơn nữa thêm vào hai mạch núi quan trọng ở Cáp Mật đoạt được khống chế từ tay người Ngõa lạt, cho dù là mặt kinh tế hay là mặt quân sự, hoàng triều Đại Minh ta đã hình thành sức ảnh hưởng cực lớn đối với ba mươi sáu quốc đô Tây Vực, Tây Vực đã không đủ là họa nữa.
Phía đông, dẹp yên Oa quan, thủy sư của Đại Minh từ nội hồ đi về phía Đại Hải, Đông Hải, Nam Hải đều nằm trong phạm vi của thủy sư Đại Minh ta, hai năm tới là có thể kéo dài đến Nam Dương thậm chí là Tây Dương, dần dần khuếch trương, mở rộng ảnh hưởng. Phía nam dĩ nhiên không cần phải nói, các phiên quốc nhiều, đấu đá lẫn nhay, khó thành họa lớn. Họa của Đại Minh chỉ có phương bắc.
Phía bắc, chúng ta lấy lại thảo nguyên Hà Sáo, có một mảnh đất quý để nuôi dưỡng binh mã, hơn nữa lấy đây làm cứ điểm tiến công, có thể hình thành kiềm chế nhất định đối với bộ lạc thảo nguyên. Phía Liêu Đông đợi sau khi chư vệ Đóa Nhan nhường ra lãnh địa, các vệ sở Liêu Đông hình thành một tuyến, phòng ngự kiên cố, lại có mục dân khai hoang trồng trọt, dung hòa với cuộc sống của bộ tộc Nữ Chân, ba năm mươi năm sau thì không khác gì quan nội cả.
Mà Ngõa Lạt và Đóa Nhan Vệ có phải từ nay không còn uy hiếp gì không? Sẽ không, nhân khẩu của bọn họ cũng không ngừng tăng lên, hơn nữa tính không xác định của bão tuyết, hạn hán trên thảo nguyên đã định trước là bọn họ chỉ dựa vào thảo nguyên thì khó mà có được cuộc sống an ổn. Đến lúc đó, bọn họ vì sinh tồn, lựa chọn duy nhất chính là khơi mào chiến tranh lần nữa, công kích biên cương Đại Minh ta.
Thần nghĩ, về mặt văn hóa, tư tưởng thì không ngừng giáo hóa, khiến họ không khác gì người Hán. Về mặt kinh tế, chí ít phải để bọn họ có áo mặc, có cơm ăn, bọn họ mới không nghĩ đến chuyện cướp bóc người khác. Một mẫu đất có thể nuôi sống cả một nhà, một mẫu thảo nguyên ngay cả một con ngựa còn không nuôi sống nổi, từ du mục hoàn toàn phát triển thành bán nông canh là chuyện tất nhiên.
Nhưng đại thảo nguyên có địa lý hạn chế, ngoài trừ một ít khu vực con sông ra thì không thích hợp đổi thành nông canh, bằng không chỉ sẽ biến thành sa mạc, vậy thì ruộng đất của bọn họ từ đâu mà có? Đại Minh không thể cho bọn họ Liêu Đông, quan nội được? Vậy thì chỉ có duy nhất phía bắc, ở đó có vô số đất đai màu mỡ.
Ý của thần, chặn không bằng theo, để quan lại và quân đội Đại Minh chúng ta dẫn đường cho những bộ tộc du mục này phát triển về phía bắc, dần dần đi theo con đường từ du mục chuyển sang cùng coi trọng du mục và canh nông. Đồng thời trong quá trình này tăng cường dung hòa, thông thương, đồng minh, liên hôn hai tộc chúng ta. Dần dần, bọn họ sẽ bị chúng ta Hán hóa, trở thành một phần tử của chúng ta, không tiếp tục phân chia Hán Di nữa. Kế hoạch này cần thời gian lâu dài, lại là cách ổn thỏa nhất đồng thời là nhất lao vĩnh dật.
Hoàng thượng phong thần làm vương, thần lại tự xin xuất quan đến tái bắc xa xôi, thật ra quan hệ trọng đại đến việc này. Kết minh với bộ lạc Mông Cổ, khai thác thảo nguyên phía bắc, nếu không có một loạt biện pháp kinh tế, văn hóa, tôn giáo, chính trị áp dụng vào thì không thể khai thác đất đai vững chắc đồng thời cùng hưởng lợi ích lâu dài với người Mông Cổ, hợp tác thậm chí là hoàn toàn dung hợp.
Thế nhưng thành lập thành trấn thôn xóm, cắt cử quan lại, trú đóng quân đội, phát triển văn hóa giáo dục, chấn hưng công thương, di cư người Hán, khai hoang đồn điền, và các phương diện khác đều liên can đến việc chung sống của hai tốc, quan viên được phái trú cho dù là một Tổng Đốc Tuần Phủ, thì quyền lực cũng không làm được. Mà một vị phiên vương phiên địa lại có thể làm được điểm này.
Lấy quyền lâm thời thay đổi của phiên vương, hàng họ lập uy, cho họ lợi ích, giáo dục văn hóa, thúc đẩy Phật Đạo Nho giáo, mở rộng tai mắt ngôn luận, chấn hưng nông mục công thương, đồng loạt quản giáo, biên giới Đại Minh, sẽ có thể khuếch trương đến tám ngàn dặm nơi chân trời cực bắc!
Hoàng thượng, Kiềm Ninh Vương Mộc Anh là con nuôi của Thái Tổ, lại là đại tướng khai quốc công lao chói lọi. Luận công lao, thần không bằng ông ta; luận thân sơ, tám lạng nửa cân. Thái Tổ Hoàng đế có thể để ông ta làm phiên vương Vân Nam, vĩnh trấn biên thùy, đời đời cùng tồn tại với Đại Minh, hà cớ gì Hoàng thượng lại xem chuyện bảo thần làm phiên vương Tái Bắc giống như là sung quân vậy? Chúng ta quân quân thần thần, con cháu đời sau không tiếp nối được sao?
Chính Đức Hoàng đế bị hắn lừa đến hơi choáng váng, nghĩ không ra tại sao ở lại Kinh thành là tiêu dao vương thì không thể quân quân thần thần, con cháu đời đời, thể nào cũng phải sung quân biên tái mới được. Y nghi hoặc nói:
- Nơi cực bắc kia, thật sự không phải là nơi bốn mùa rét căm đất cằn sỏi đá sao?
- Hoàng thượng ngài nghĩ xem, Tô Võ chăn dê, cái dê ăn là cỏ, nếu ở đó thật sự là một năm bốn mùa, tuyết rơi băng đóng thì cỏ có thể lớn lên sao? Nơi vực bắc đích thật là nhiều năm đóngbăng không đổi, nhưng Hoàng thượng, địa vực Tây Bá Lợi Á to lớn, không thua gì quốc thổ hiện có của thiên triều ta. Đại Minh ta có miền nam bốn mùa như xuân, có miền bắc đông hạ rõ ràng, địa phương kia có miền nam đông hạ rõ ràng, có miền bắc bốn mùa như đông, chỗ không tiện cư trú chỉ có vùng cực bắc, nói vậy Hoàng thượng có hiểu không?
Chính Đức Hoàng đế như thoáng chút suy nghĩ gật đầu.
Dương Lăng lại nói:
- Hoàng thượng, hoàng hậu Tác Phi Á của La Tư Quốc phía tây là một người hùng tài đại lược. Người này châm ngòi ly gián đối với các Hãn quốc ở Tây Bá Lợi Á, khiến các Hãn quốc chinh chiến không nghĩ, quốc lực dần dần suy yếu, e rằng không đầy mấy năm nữa, La Tư Quốc sẽ khởi binh đông chinh, thâu tóm từng nước, chiếm cứ lấy giang sơn ngàn dặm này.
Bây giờ thời gian đã không đợi chúng ta rồi, nếu Hoàng thượng không có chí làm một đế vương như Tần Hoàng Hán Vũ, vậy vì sao không thành toàn cho thần làm một danh tướng như Mông Điềm Vương Tiễn, Vệ Thanh Hoắc Khứ Bệnh chứ? Không có hùng tài đại lược của Tần Hoàng Hán Vũ, thì trên đời làm sao có những tướng quân giống như những chiến thần này? Không có những tướng quân dũng mãnh thiện chiến này, làm sao có được công tích vĩ đại của Tần Hoàng Hán Vũ?
Nếu Hoàng thượng thương thần, thì nên buông tay để thần đi thực hiện giai thoại quân thần của chúng ta, chứ không phải để thần tiêu dao tự tại, chết già ở kinh!
Dương Lăng càng nói càng kích động, đứng lên nói:
- Hoàng thượng, từ khi Tần Thủy Hoàng xây Tường Thành, chỉ có duy nhất triều Đại Minh ta dụng tâm tu sửa xây dựng nhất, quan ải trùng trùng, những cửa ải thành lũy mà Binh Bộ chuẩn bị xây nữa đã hơn trăm cái, lại có phòng ngừa được biên họa xâm lược không ngừng không, trọng binh tụ tập cửu biên lãng phí thế nào chứ?
Nếu Đại Minh ta hùng mạnh, biên giới mở rộng về phía bắc, thảo nguyên tái ngoại chẳng qua là hoa viên để Hoàng thượng cưỡi ngựa ngắm hoa, cần gì phải dùng tôn nghiêm của thiên tử để giữ biên giới chứ? Thần nguyên trong những năm còn sống, xây dựng công lao thiên thu cho Đại Minh ta. Xin Hoàng thượng thành toàn! Không hủy Trường Thành không phải hảo hán, chưa phóng ngựa Bắc Hải thủy không thể xưng hùng!
- Không hủy Trường Thành không phải hảo hán, chưa phóng ngựa Bắc Hải thủy không thể xưng hùng!
Chính Đức Hoàng Đế chậm rãi đọc một lần, đôi mắt dần dần sáng bừng lên.
- Đừng đoạt, đừng đoạt, con là tỷ tỷ, này, coi dáng vẻ ngốc nghếch của con kìa, sao lại bị đệ đệ đẩy ngã được vậy? Quay đầu lại học công phu với nương con thật tốt đi. Tuyết Nhi à, con xem ca ca tỷ tỷ con thật không có tiền đồ mà.
Dương đại lão gia ôm tiểu nha đầu Dương Tuyết Nhi trắng mịn nõn nà nói chuyện với nó.
Đôi mắt giống như hai điểm sơn chăm chú nhìn Lý Kỳ, Dương Tuyết Nhi nhỏ bé cũng không cười, nó thật sự quá nhỏ, căn bản nghe không hiểu Dương Lăng đang nói cái gì.
Trên giường La Hán, mấy đôi giày da hổ, mũ da hổ xù lông, làm từ da hổ chân chính, còn có mấy viên đông châu cực lớn, đây là trân châu lấy được từ trong trai ngọc nuôi trong nước ngọt Hắc Long Giang, còn óng ánh trong suốt hơn nam châu, tròn trịa cực lớn, ngoài ra còn có mấy loại thực phẩm như táo, hạt thông.
Mấy tiểu hài tử ngươi tranh ta đoạt, Dương Phán Nhi kéo hết toàn bộ đông châu vào lòng, Dương Đại Nhân một chiêu hổ vồ đoạt được mấy cái mũ da hổ về tay, Dương Khí Cừu giận, tuổi nó tuy nhỏ nhưng sức lực lớn, đẩy một cái thì đại ca ngã chổng vó, trong tay Dương Đại Nhân vẫn nắm chặt mũ da hổ không buông.
Dương Lăng nhìn thấy thì vừa bực mình vừa buồn cười, rống lớn nói:
- Không có ai kể chuyện Khổng Long nhường lê cho các con sao? Nào, đến đây, ngồi xuống, nghe cha kể chuyện cho các con.
Mấy hài tử căn bản không nể mặt, Dương Phán Nhi coi hạt châu kia giống như hòn bi, cong tay búng ra, lăn tròn ra ngoài từ trên giường gạch. Dương Đại Nhân nhìn thấy thì mắt sáng lên, bỏ mũ da hổ ra đuổi theo, Dương Khí Cừu mặc quần yếm, hai cái mông nhẵn bóng lóe lên, cũng bỏ qua giày da hổ mà lập tức đuổi theo.
Tuyết Lý Mai khẽ cười một tiếng, nói với Dương Lăng:
- Nghe bọn thị vệ nói, ngày nào Phù Bảo cũng vòng vo ngoài cửa phủ, ngại vì Cẩm Y Vệ phụng mệnh làm việc, nên không thể vào được, tin chắc không chỉ muội ấy, hai vị điện hạ nhất định cũng rất lo lắng. Huynh không nghĩ cách nói một tiếng để bọn họ yên tâm sao?
- Không nói được, văn võ cả triều đều là người tin ranh, nếu các nàng không gấp gáp thì khó tránh khỏi bị lộ. Muội yên tâm, ba người các nàng cũng không phải là đèn cạn dầu, bây giờ đại khái là không đoán được tình hình nên muốn tìm ta hỏi cho rõ thôi, sẽ không tin Hoàng thượng thật sự muốn giết ta. Nếu thật sự bởi vì quá gấp gáp mà muốn tìm ta tính sổ, thì ta còn có thể đổ lên người Hoàng thượng nha, các nàng không vào chỗ của ta được, ai bảo Hoàng thượng không nói chứ.
Dương Lăng nói xong thì lao đến chỗ ba đứa trẻ đang vểnh cái mông, kéo lấy hạt thông vào trong lòng trên giường hừ một tiếng nói:
- Nhìn mấy đứa không tiền đồ các con này, nhìn xem, vẫn là Tiểu Tuyết Nhi ngoan, đi, cha đi dỗ con ngủ.
Rời khỏi hoa thính mà ba đứa trẻ đang cãi nhau, đi vào trong phòng của Tuyết Nhi, Dương Lăng nhẹ nhàng vỗ Dương Tuyết Nhi trong lòng, khẽ ngâm nga một bài, không khỏi nhớ lại đoạn đối thoại giữa hắn và Chính Đức. Vừa nghĩ lại, Dương Lăng không khỏi có chút hổ thẹn, tuổi tác của Chính Đức Hoàng đế lớn dần không sai, nhưng ít nhất bây giờ y không chút tị hiềm gì đối với mình, càng không nắm mọi quyền lợi, kiêng kỵ tấm lòng của công thần, bản thân mình coi quá nhiều vở kịch cung đình, đã nghĩ hắn quá mức không chịu nổi.
Dù sao cũng là hảo huynh đệ cùng nhau học hành, cùng nhau ca hát, cùng nhau về quê, cùng nhau đỡ thương, cùng nhau chia lợi, Chính Đức Hoàng đế căn bản không hoài nghi mình giữ binh làm tư, ngược lại rất nhạy cảm phát giác ra hắn tính toán quyền bính công lao đã lên đến đỉnh cao, vì thế mà nhanh chóng rút lui, đi xa tránh họa, vì thế mà tức giận không thôi.
Sự lo lắng về tương lai của Thành Khởi Vận không biết sẽ có ngày xuất hiện hay không, nhưng bản thân mình xin được phong đi biên tái, duy trì khoảng cách thích hợp chính là nỗ lực để duy trì tình cảm thân thiết này, tránh cho ngày đó xuất hiện, bây giờ cố gắng này đã thực hiện rồi.
Đứa nhỏ trong lòng đã nhắm mắt lại, hô hấp bình ổn, Dương Lăng vẫn đắm chìm suy tư trong hồi ức của mình.
Quân thần tương kiến chân thành, nói ra tiếng lòng với nhau, lo lắng của hắn vẫn đặt trên chỗ bá quan có buông lời gièm pha không, Hoàng thượng có nghi kỵ không, còn tràn đầy lòng tin vói việc dung hợp các bộ tộc du mục nắm tay nhau phát triển, năng thần lương tướng ôm ấp bao nhiêu đại chí chính bởi vì hậu viện không vững chắc mà tráng chí thỏa nha. Tuy đã trấn an Hoàng đế một phen, nhưng hắn sao có thể thực sự yên tâm đây?
Chính Đức cuối cùng cũng nghe ra lo lắng của hắn không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong, thế là khổ tâm suy nghĩ, giúp hắn đưa ra khổ nhục kế này. Thử nghĩ một Hoàng đế vốn muốn phong thưởng vùng đất Tề Lỗ kiêm Liêu Đông cho hắn, nhưng lại cự tuyệt không nhận điều này, vì thế mà chọc cho Hoàng đế giáng phong làm Vương gia Tái Bắc, hạ lệnh hắn mở mang bờ cõi lập công chuộc tội, còn ai sẽ hoài nghi trong lòng hắn có dã tâm mà đưa tay cản trở đây?
Ba người thành hổ nha, nghe nhiều tin đồn rồi thì sẽ tổn thương đến tình cảm. Đầu tiên là phải ngăn chặn miệng của bá quan, đánh đang nghi ngờ của bọn họ, hơn nữa thông qua màn kịch này mà khơi dậy hùng tâm tráng chí của bọn họ, để bọn họ cũng thay đổi lệ cũ, tích cực dấn thân vào bá nghiệp trong hùng mạnh ngoài khuếch trương, còn ai dám nói này nói nọ tấm gương tiêu biểu của bọn họ chứ? Vậy chẳng khác nào chặt đức cơ hội kiến công lập nghiệp, ghi danh sử sách của mình chứ?
So với sự lo lắng đối với trong triều của Dương Lăng, Tái Bắc mà Hoàng đế lo lắng, chỉ là lo lắng vị Vương gia không mang theo quân nhu, chỉ cần Dân đoàn võ trang của Nô Nhi Can Đôi Ti, không có đất phong, đất phong còn đang đợi hắn đi chinh phục này có thể chiếm được địa vị chủ đạo trong hợp tác liên minh giữa bộ lạc Đóa Nhan và Bạch Y quân hay không.
Cho đến khi Dương Lăng thấp thỏm lo lắng nói ra quan hệ với Thôi Oanh Nhi và Ngân Kỳ, Chính Đức Hoàng đế tim đập loạn nhịp thật lâu mới nắm chặt tay của hắn ra sức lắc, vẻ mặt phức tạp lại không nói lời nào, làm cho Dương Lăng không hiểu ra sao cả.
Ừm, thật sự không hiểu ra sao cả. Dương Lăng cho đến giờ vẫn nghĩ mãi không thôi, lẽ nào Hoàng thượng cho rằng hai người các nàng một người là mã tặc giết người không chớp mắt, một người là người man ăn tươi nuốt sống, thô bỉ không chịu nổi?
Không hiểu ra sao cả. Thật sự là không hiểu ra sao cả.
Trận tuyết đầu tiên trong Kinh sư Đại Minh còn chưa tan đi, thì trận tuyết tấu chương của văn võ bá quan đã xuất hiện trên giang hồ rồi.
Tấu chương cầu xin thứ tội cho Dương Lăng của Nội Các, sáu Bộ, sáu Khoa, mười ba Đạo đều bay vào Báo phòng, bay vào Hoàng cung, bay vào điện Kim Loan như tuyết rơi, thật khiến cho người ta không thể nào tránh được.
Chính Đức Hoàng đế làm ra vẻ nhượng bộ, sau hai ngày giữ lại không phát ra thì lại chia sẻ tâm sự với triều thần một phen, lại nói ra hùng tâm tráng chí cả đời mình một lần nữa, khiển trách Dương Lăng không hiểu thánh ý, mang tội nghi kỵ bề trên, lúc này mới miễn cưỡng tuyên bố đổi phong cho Dương Lăng làm Tây Bá Lợi Á Vương, đất phong nằm giữa lưu vực Hắc Long Giang và núi Đại Hưng An.
Đến lúc này, một Nô Nhi Can Đô Ti chia làm hai, một nửa vệ sở và di dân đưa vào trong đất phong của Dương Lăng. Nô Nhi Can Đô Ti Chỉ huy sứ là tướng lĩnh Bắc Nguyên năm đó đầu hàng Đại Minh, là thủ lĩnh bộ lạc người Mông khá lớn, hơn nữa còn là Đô Chỉ huy sứ truyền đời, thật ra không khác gì vương hầu, lần này không chỉ bị bớt đi một nửa lãnh địa, hơn nữa còn bị một Vương gia như Dương Lăng quản thúc nữa.
Có thể được an ủi chính là, có lẽ Hoàng thượng xuất phát từ tâm lý bồi thường mà cho hắn quyền tự trị tự chủ khá lớn, hơn nữa trong năm năm, lãnh địa của hắn chỉ cần cống nạp thuế phú năm con Hải đông thanh, hai mươi viên đông châu, một trăm bộ áo lông cho triều đình thôi.
Đồng thời, do ở đó dị tộc chiếm phần nhiều, thế lực rắc tới, mà nơi cực bắc cách Kinh sư núi cao sông dài, giao thông bất tiện, cho phép hắn có quyền lợi tùy thời tùy thế mà phát động tiến công bên ngoài, phòng ngự, kết minh, đồng thời có thể điều trước tấu sau đối với quân Nô Nhi Can và quân Liêu Đông.
Có điều nghe nói cái tên kỳ quái Tây Bá Lợi Á này là bởi vì ở đó chạy về phía bắc, là vùng đất cực hàn mà năm đó Tô Võ chăn dê đã đặt cái tên này, đáng thương cho Dương Lăng rửa sạch mối nhục Thổ Mộc Bảo cho Đại Minh, mở mang bờ cõi lập công cực lớn lại bị đày đến nơi đất cằn sỏi đá, đi thống lĩnh một đám người man, đọa dân, di dân hai bàn tay trắng xây dựng vương quốc. Người ta cũng là vương, hắn cũng là vương, làm Vương gia mà làm được tới như vậy thật sự khiến người ta nhỏ lệ cảm thương, đáng thương mà!
Người trong thiên hạ đều tiếc thương cho vị Tây Bá Lợi Á gì gì đó thảm thương này vốn nên yên ổn làm Uy Võ Vương của hắn, vốn nên thưởng trà ngon hưởng phúc nhàn ven hồ Đại Minh Tế Nam, mà lại không biết người đáng thương nhất lại là Chính Đức Hoàng thượng gánh tiếng xấu lần này cho hắn, có điều Chính Đức Hoàng đế ta gánh tiếng xấu, ngươi tạo giang sơn lại không để ý. Y là Hoàng thượng, gánh tiếng xấu thì ai làm gì được y? Phía Thái hậu và ba vị công chúa không biết chân tướng còn có mấy tiếng xấu đang đợi y gánh kia, lợn chết không sợ nước sôi nữa.
Trên chiếu thư của Chính Đức có một chuyện không khiến người khác chú ý, chính là Dương Lăng có đất phong mà không có Vương cung. Vương gia vốn nên lệnh cho Ti Lễ Giám và Công Bộ nhanh chóng xây dựng Vương cung, sau đó Phiên Vương mới có thể khởi hành đến đó, nhưng bây giờ lại ém lại không nhắc đến chuyện xây Vương phủ, chỉ tuyên bố Dương Lăng rất nhanh sẽ trở lại tái ngoại chủ trì việc di trú xây thành của Đóa Nhan.
Nếu là như vậy, thì tòa Vương phủ ở ngoại ô Kinh sư kia vẫn là Vương phủ chính tông, nơi mà Dương Lăng tự mình xây dựng trên đất phong của hắn chỉ có thể gọi là biệt cung. Chỗ đáng nghiền ngẫm trong chuyện này còn quá nhiều, một số triều thần để tâm chú ý đến chuyện này, lờ mờ cảm thấy e rằng vị Tây Bá Lợi Á Vương này sẽ không mất đi lòng vua như thế, cũng sẽ không vị giáng đến tái ngoại không về kinh nữa như vậy.
Chính Đức Hoàng thượng tuyên Dương Lăng lên Kim điện, cơn giận chưa tan mà giáo huấn một phen, tuyên bố bổ nhiệm, sau đó thưởng cho một bức họa, bức họa mà Hoàng thượng chính tay sẽ lấy. Việc này lại trở thành chuyện mà từ văn võ toàn triều đến dân chúng thiên hạ đều cực kỳ tò mò lần nữa.
Nhớ ngày đó Dương Lăng tìm y khắp cửu thành, công khai kháng chỉ, Hoằng Trị Hoàng đế phạt hắn quỳ gối ở Ngọ Môn, sau khi ân xá lại ban cho một bức tranh chính tay vẽ. Bức tranh kia từng cứu mạng Dương Lăng trên pháp trường, cho nên rất nhiều người biết, thậm chứ đề tự của Hoằng Trị Hoàng đế trên bức tranh đã được lưu truyền ra ngoài từ lâu.
- Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài.
Đó là lời tán dương đến thế nào nha? Hoàng thượng thật sự là miệng vàng lời ngọc mà, Dương Lăng thật sự trở thành rường cột của triều Đại Minh.
Bây giờ, Dương Lăng lại chống lại thánh chỉ, lại đắc tội đương kim Hoàng thượng. Bức tranh mà Hoàng thượng tặng hắn là bức tranh gì đây? Lại là đề tự gì đây?
Không có ai biết, không chỉ Tiêu Các Lão qua lại thân mật với hắn không biết, văn võ trọng thần về sau trở thành tay trái tay phải của Tây Bá Lợi Á Vương, dương danh trời Âu như Dương Thận, Yên Cao Tài, Nghiêm Tung, Vu Vĩnh, Hoàng Kỳ Dận, Ngũ Hán Siêu, Giang Bân, Hà Văn Bính không biết, mà ngay cả các con của Dương gia sau này sẽ lần lượt kế thừa phong hiệu Bắc Anh Vương, Thuận Minh Vương, Tây Bá Lợi Á Vương cũng không biết.
Bởi vì sau khi Dương lăng coi xong thì bỏ bức họa vào trong hòm đồng khóa lại đổ sáp phong kín, từ đó gác xó ở đó, chỉ để lại một mệnh lệnh:
- Trong vòng năm trăm năm, không được mở ra!
Bức họa này cho đến năm trăm năm sau mới do hậu nhân Dương thị và hậu nhân Chu thị phân tán khắp nơi tề tụ lại ở từ đường Dương gia ở Bối Gia Nhĩ Hồ, trước mắt bao người, mời chuyên gia mở văn vật quan trọng này ra, hơn nữa còn được trực tiếp toàn cầu.
Lúc đó Dương gia và Chu gia có rất nhiều danh nhân trong giới chính trị, thương nghiệp, quân sự thậm chí là nghệ thuật ở khắp các nước lớn, sức ảnh hưởng rất lớn, bọn họ tề tựu dưới một mái nhà mở ra bí mật của tổ tiên, dĩ nhiên sẽ khiến thiên hạ chú ý.
Chỉ tiếc, bức họa này mở ra còn dẫn đến một bí ẩn còn lớn hơn nữa. Bức họa do chính tay Chính Đức Hoàng đế vẽ không ai có thể đoán ra có ý gì, rốt cuộc vì sao lại có.
Trên bức họa kia, là một nam tử cao to khuôn mặt anh tuấn, dáng vẻ tao nhã, dung mạo cực kỳ giống với tổ tiên Dương Lăng mà từ đường Dương gia cung phụng. Chỉ thấy trong bức họa chỉ có một người, một ngựa, mặc áo lông chồn, ôm đàn tỳ bà đứng trên Thổ Sơn buồn bã nhìn lại, xa xa là Trường Thành uốn lượn, cứng cáp hùng hồn! Cả một bức tranh Chiêu Quân xuất tái phiên bản Dương Lăng.
Bên cạnh là sáu chữ lớn:
- Dương khanh, cực cho khanh rồi!
Bức tranh và lời bạt đùa giỡn, trêu tức hảo huynh đệ này của Chính Đức Hoàng đế chính là bức "Dương Lăng xuất tái", cùng với một câu "cực cho khanh rồi" đầy ám muội đã khơi dậy vô số phỏng đoán của đời sau.
Đại Minh Võ Tông Hoàng đế anh minh cơ trí, hùng tài đại lược trong lịch sử đứa ánh mắt ra xa nhìn từ trên xuống, phái đệ nhất trọng thần Dương Lăng bên cạnh viễn chinh tái bắc, từ đây gây dựng cường quốc có bản đồ lớn nhất, thực lực mạnh nhất, đến nay vẫn sừng sững trên đỉnh thế giới. Hai nhân vật truyền kỳ trong truyền kỳ như vậy rốt cuộc có quan hệ không ai biết nào đây, bức họa này rốt cuộc có quỷ dị gì đây?
Bao nhiêu học giả chuyên gia nghĩ đến bạc đầu cũng đều không biết, đủ dạng phỏng đoán lan truyền khắp nơi, đám chuyên gia học giả ở một đảo quốc thích tự ti nào đó từng khảo chứng nghiêm túc, kết luận cho ra là Chính Đức Đại đế anh minh thần võ và Tây Bá Lợi Á Vương Dương Lăng không phải người Hán, mà là người của quốc gia của bọn họ.
Có điều do lý do quá mức gượng ép hoang đường, căn cứ buồn cười viết đủ cả hai quyền dày cộp còn chưa quay lại, hơn nữa còn chưa ai có thể nhìn cho kỹ thì hậu nhân hai nhà Chu Dương nhất trí quyết định: bọn họ muốn xem tổ tiên của mình là tổ tiên thì mặc bọn họ đi, lười tính tóa với bọn họ.
Một đảo quốc khác lấy AV làm thương phẩm xuất khẩu chủ yếu trên toàn cầu cũng không chịu cô đơn, mấy đầu sỏ chủ yếu của các ngành điện ảnh truyền hình, tin tức, xuất bản trò chơi thống nhất mang tâm lý dơ bẩn mà tạo ra một câu chuyện thu hút ánh mắt toàn cầu, cho rằng một đế một vương này là một đôi tình nhân đồng tính vì đại nghiệp giang sơn mà bỏ qua tư tình nam nhi, đồng thời còn tuyên bố muốn quay một bộ phim sử thi lớn.
Truyền thuyết đồng tính gây xôn xao khắp nơi, lần này chọc phải đại họa. Phỏng đoán này khơi dậy bất mãn mãnh liệt của hậu nhân Dương thị và hậu nhân Chu thị, dưới sự chèn ép của hai nhà liên thủ, những đầu sỏ thương nghiệp chế tạo phim truyền hình h, trò chơi h, hoạt hình h lần lượt đóng cửa, khiến kinh tế quốc gia này chịu tổn thất nặng nề.
Từ đó, cũng không còn ai dám nói toạc ra phỏng đoán này nữa, mọi người chỉ lén lút nói đến câu chuyện đồng tính này ở sau lưng thôi.
Chính Đức bái tế Thái Sơn.
Tháng mười hai, tập hợp Thái Sơn, văn võ bá quan, nghi trượng theo hầu, Hoàng hậu dẫn theo mệnh phụ nội ngoại, xe bái tế liên miên trăm dặm, còn cò các sứ tiết và tù trưởng của Nam Dương, Tây Vực, các nước phương đông đi theo nữa.
Ở dưới chân núi bốn trăm dặm phía nam có xây một đàn tế hình gò, trên đó trang trí bằng đất năm màu, hiệu là "Phong Tự Đàn", trên đỉnh Thái Sơn lại xây dựng một đàn, rộng năm trượng, cao chín xích, bốn mặc đều có bệ, hiệu là "Đăng Phong Đàn", trên núi Xã Thủ xây dựng đàn vuông ở tám góc, hiệu là "Hàng Thiện Đàn".
Dựa theo trình tự nghi lễ mà Lễ Bộ định ra, trước tiên Hoàng thượng phái tế trời ở "Phong Tự Đàn" dưới chân núi, ngày kế thì đi lên đỉnh núi, phong Ngọc sách ở "Đăng Phong Đàn", ngày thứ ba thì đến "Hàng Thiên Đàn" núi Xã Thủ tế thần đất. Hoàng đế dâng lễ hoàn tất, Hoàng hậu lên đàn dâng lễ, sau khi kết thúc bái tế thì phải nhận chầu mừng của quần thần.
Đường Quý phi đang có mang nên không đi theo, ba vị công chúa lại đến đông đủ không sót ai. Sau khi bái tế thì Dương Lăng phải đi tái bắc, nhưng mùa xuân năm tới hắn sẽ quay về Vương phủ thành thân, sau đó mới đón cả nhà về đến thành mới. Có thể cùng người trong lòng bên nhau lâu dài, Vĩnh Phúc, Tương Nhi và Phù Bảo đều tràn đầy vui sướng.
Vĩnh Thuần cũng rất vui sướng, mặt mày hớn hở líu ríu giống như một con chim khách vui vẻ vậy. Có một tỷ phu có bản lĩnh như vậy thật hay, hoàng huynh đã đồng ý ngày xuân sang năm khi tỷ tỷ xuất giá, nàng có thể theo cùng đến tái bắc du ngoạn quan ngoại. Có một lần rồi thì dễ làm, lúc trước công chúa xuất cung không có được cái cớ tốt, sau này muốn ra ngoài chơi, chỉ một lý do tỷ muội tình thâm thì đủ rồi, tái ngoại kia chẳng phải là muốn đến thì đến sao?
- Trời nóng thì đến tái ngoại, trời lạnh thì trở lại, cảnh tuyết không tồi nha, tuyết ở quan ngoại nhất định càng đẹp nha? Nếu ta thích, mùa đông cũng có thể đến tái ngoại.
Vĩnh Thuần sung sướng tính toán.
Đỉnh Ngọc Hoàng, Đăng Phong Đàn.
Chỉ có trời bên trên, không có núi đứng cùng, ngẩng đầu thái dương cận, quay đầu mây trắng thấp, đó là dấu hiệu thế nào đây?
- Dĩ ngoại trung lễ toàn, hàng thiện vân thủy, ngũ ngọc ký tập, vạn phương tư lại. Thiên hạ chi tráng quan, vương giả chi phi nghiệp, phục duy Đại Minh Chính Đức hoàng đế bệ hạ, dĩ thiên phúc chi đại, địa dung chi hậu
Thanh âm lanh lảnh, đọc lên sách của trời, mọi lễ hoàn tất, một mình Chính Đức bước lên Đăng Phong Đàn, bỏ thư vào trong đàn, bá quan văn võ đứng trang nghiêm ngoài trăm thước, giương mắt nhìn trời, quét mắt nhìn mây, một mình trong trời đất, đây mới là cửu ngũ chí tôn. Không biết thế nào mà Chính Đức đứng rất lâu, lại chỉ có cảm giác cô đơn giá lạnh nơi cao.
- Tuyên, Dương Lăng bước lên.
Ngây ngốc nhìn ngọc sách hoàng biểu được bày ngang dưới đàn, Chính Đức đột nhiên hạ lệnh.
Đỗ Phủ dưới đàn vội cao giọng tuyên chỉ, Dương Lăng lạnh đến đỏ bừng cả mũi bước nhanh ra khỏi hàng, đi đến dưới Đăng Phong Đàn.
Dưới đàn là một cái bàn dài, trên bàn phủ một tấm lụa vàng dài bảy xích, trên án đặt một ngọc điệp, bên cạnh là một cây bút, nếu thiên tử có nguyên vọng cá nhân gì muốn cầu nguyện với thượng thiên thì có thể viết xuống ngọc điệp, sau đó bỏ vào Đăng Phong Đàn, rồi phong kín trên đỉnh Thái Sơn.
Chính Đức bước xuống Đăng Phong Đàn, chóp mũi y cũng lạnh đến đỏ bừng, sắc mặt có chút trắng bệch, có điều khí sắc vô cùng tốt, Chính Đức đến trước bàn dài, đoạn nói:
- Dương khanh, tiến lên.
Quan lại văn võ, mệnh phụ, hoàng thân và vọn thị vệ thái giám từ xa trông lại, lại không biết trên ngọc điệp khắc cái gì.
Ngón tay nhẹ nhàng xoa rìa đá ngọc bóng loáng, Chính Đức chậm rãi mở ngọc điệp buộc tơ vàng, cười nói:
- Dương khanh, khanh tới xem.
- Thần tuân chỉ!
Dương Lăng chắp tay tiến lên, lóe mắt nhìn sang, trên ngọc điệp là từng hàng từng hàng chữ to lấp lánh ánh vàng:
- Trẫm kế vị từ thời niên thiếu, gánh vác mọi thứ trên đôi vai non nớt, hết sức lo lắng, chăm lo việc nước, tuần cửu biên, mở đường biển, cải cách chính trị, chấn hưng công thương, trấn áp nịnh ngông, thi hành văn trị, phong phú lưu loát, há chỉ vạn lời. Lúc mới trị quốc, trên theo ý trời, dưới xét dân tình, có thần tử trung hiền phò trợ, một diệt giặc Oa Đông Hải, hai hàng Tây di nam cương, ba thu phục người man Tây Thục, bốn trừ Bạch Y Trung Nguyên, năm bình loạn phiên nghịch, sáu bình định thảo nguyên tái bắc, với sáu chiên công, vinh quang mở rộng bờ cõi, thắp sáng triều đường Thái Miếu, báo với thiên địa quỷ thần!
- Trẫm lấy lễ hành sự, lấy nghĩa tu thân, làm trọn đạo hiếu, dạy dân bằng nhân, chỉ mong trong bốn việc, đều thực hiện khắp quận huyện; tứ di bát man, cống nạp đảm nhiệm, vô cực với trời, nhân dân sung tú, mãi được lộc trời. Trụ thần của nước Dương Lăng, vấn vương vì nước, cúc cung tận tụy, thay thiên tử tuần thú thiên hạ, chấn hưng oai danh quốc gia với man di, văn thành võ đức, công với xã tắc. Trẫm và Dương Lăng, nguyện đối đãi thành thật, cùng vui cùng buồn, thành kính bẩm báo thượng thiên!
- Hoàng thượng!
Xem đến đây, trái tim Dương Lăng ấm lên.
Chính Đức chợt mỉm cười, đoạn nói:
- Ngọc điệp này của trẫm là công tích mà trẫm bẩm báo với trời đất, cũng là bằng chứng nói rõ tình nghĩa quân thần chúng ta với trời đất, sau đó sẽ phải niêm phong cất vào Đăng Phong Đàn, vĩnh viễn để lại trên đỉnh Thái Sơn, trẫm muốn cùng khanh chấp bút trên đây.
Cảm xúc của Dương Lăng sục sôi, đủ mọi tình cảnh từ khi quen biết Chính Đức đến nay vụt qua trước mắt. Mắt thấy Chính Đức Hoàng đế khép lại sách ngọc mà nhấc bút, Dương Lăng đột nhiên nói:
- Hoàng thượng chậm đã, thần nguyện chấp bút vì Hoàng thượng!
Chấm bút vào trong phấn vàng được đặc chế, một hàng chữ to màu vàng thoáng hiện như nước chảy mây trôi:
- Đại Minh Chính Đức Hoàng đế bệ hạ.
Viết đến đây, hắn đột nhiên nhớ ra khi mình từ Tỉnh Kính Dịch diệt trừ Di Lặc Giáo chủ Lý Phúc Đạt hồi kinh thì nhìn thấy tiểu Hoàng đế bộc lộ tính tình thật trong tửu lâu kia, không khỏi khẽ cười, nhấc bút chấm vào phấn vàng viết tiếp:
- Đến đây du ngoạn!
Chính Đức Hoàng đế nhìn thấy thì đầu tiên là kinh ngạc, sau đó thì hiểu ra, trong ngoài vây khốn khi đó, phẫn uất bi thương khi đó đồng loạt xông lên, y thở một hơi thật dài, thở ra chua xót từng trải qua, chợt nhận lấy bút, soạt soạt soạt viết ra một hàng chữ lớn rồng bay phượng múa:
- Đại Minh Tây Bá Lợi Á Vương Dương Lăng, đến đây du ngoạn!
Chính Đức viết xong ném bút cười to, dần dần, Dương Lăng cũng bật cười, tiếng cười theo gió thét gào trên đỉnh Thái Sơn!!