Chương 342: Mặt trời Minh triều vẫn mọc ở đằng Đông

Ngược về thời Minh

Nguyệt Quan 14-02-2024 22:49:35

- Ngải viên ngoại là thương nhân bản địa, người này giỏi về đầu cơ kinh doanh, thu lợi kếch xù, ông ta thì đừng nói đến cho ai cái gì, làm ăn thích tính toán chi li, lợi nhỏ cũng không nhường ai cả, cho nên ông ta có biệt danh là "gà trống sắt". Tuy nhiên ông ta đối nhân xử thế cũng thật thà, không khoa trương. Nghe nói gần đây Trấn Thủ thái giám Trương công công phụng chỉ đến thăm dò mỏ vàng ở vùng này, đào đến điền thổ nhà Ngải viên ngoại. Ngải viên ngoại cầu thần bát phương, bái Phật tứ hướng, tìm các mối quan hệ, hi vọng Trương công công có thể di rời địa chỉ thăm dò. Dương Lăng hỏi: - Bá Châu có mỏ vàng sao? Nếu như Bá Châu mà có mỏ vàng thật, bách tính ít nhiều cũng có lộc, cái mảnh đất đói khổ này lập tức có thể được chuyển mình, tuy nhiên... mạch vàng sao có thể nhỏ như vậy? Cần thiết phải đào cả nền nhà người ta lên vậy không? Dương Lăng không hiểu lắm về phương pháp thăm dò khoáng vật thời cổ, nên buột mồm hỏi vậy. Tên thị vệ được phái đi dò la tin tức nói: - Nghe nói là mời một vị đại sư về phong thủy tới, đã xem phong thủy cho rất nhiều hộ giàu có, người này đoán định ở vùng này tất có mạch vàng. Dương Lăng dựng ngược lông mày lên, nói vẻ nghi hoặc: - Xem phong thủy? Thăm dò mỏ vàng lại xem phong thủy? Hắn nói đến đây thì đột nhiên dừng lại, có rất nhiều ngành khoa học thời cổ đại chưa phân công rõ ràng. Nhiều kiến thức khác nhau lẫn lộn trong các nghề nghiệp truyền thống, như một số thầy cúng chữa bệnh, thực ra bao gồm những kĩ năng của ngành bác sĩ tâm lí. Còn về thầy phong thủy, cũng chưa hẳn là sẽ không hiểu địa chất. Hắn nhớ là đã từng xem một mẩu tin trên báo, nói rằng năm xưa thời Hậu Kim lập quốc, đóng đô ở Phụng Thiên, đó là bởi thầy phong thủy nói nơi đó nằm trên lưng của rùa thần, dưới đất có rùa thần thượng cổ đỡ lưng, cho nên giang sơn có thể trời yên bể lặng. Những lời này cố nhiên là để lấy lòng đám quan chức thôi, còn với phát hiện ngày nay, địa chất vùng này là một đới nham thạch rất lớn, cho nên tương đối vững vàng, khó mà xuất hiện động đất lớn. Quả là một nơi khá lí tưởng để xây dựng thành trì quan trọng. Tin tức đó đưa rằng, phải dùng thiết bị hiện đại thăm dò tới độ sâu hàng trăm mét mới phát hiện ra. Thật kì lạ là thầy phong thủy thời cổ đại căn cứ vào gì mà tính toán được như vậy. Lúc đó Dương Lăng cũng chỉ biết thế, chứ không rõ cái tin đó có đáng tin cậy hay không, nhưng điều đó cũng khiến hắn cảm thấy rất ấn tượng. Dương Lăng bình tĩnh nói: - Tiếp tục kể, sau đó thì sao? - Vâng, chúng tôi lén tìm tới người nhà đã bỏ trốn của Ngải gia hỏi bọn họ, nghe nói Ngải gia đã chi một khoản tiền lớn. Trương công công vốn đã quyết định rời địa điểm thăm dò rồi, nhưng đúng vào lúc đó, dưới đất Ngải gia lại phát hiện ra dấu vết của mạch vàng thật. Lúc này, để giữ lại đất đai nhà cửa, Ngải gia đành phải chi ra thêm một khoản lớn nữa, trong tay chẳng còn đồng dư nào, cả cửa hàng cũng đem bán nốt, đi lo lót chỗ này chỗ nọ thì Trương công công mới nới lỏng cho. Chỉ tiếc là Ngải gia gặp hạn, lúc đó lại có người tố giác bọn họ muốn giấu cổ vật đào được khi đào huyệt mà không giao nộp cho triều đình, vì thế lại bị Trương công công đè ra hỏi, kết quả là cả nhà quay về thì... Tống Tiểu Ái dựng lông mày lên uất hận nói: - Đại nhân, không cần nói tiếp nữa, đây rõ ràng là Trương công công mượn cớ để vơ vét. Thăm dò quặng gì mà đến cả nền nhà người ta. Đó là ở ngoại thành đấy, chứ nếu mạch vàng mà nằm trong nội thành Bá Châu thì cả thành phố phải chuyển đi chắc. Hơn nữa, được đằng chân lân đằng đầu, rõ ràng là nhăm nhe tài sản nhà người ta, cố tình vơ vét, cái loại tham quan ô lại này cần phải nghiêm trị! Dương Lăng lặng lẽ nhìn nàng, hỏi: - Nghiêm trị thế nào? - Ép người ta tan nhà nát cửa, cả nhà thắt cổ tự tử vào đúng ngày rằm tháng Giêng. Cái loại tham quan vô nhân tính như vậy không đáng bị chặt đầu sao? Dương Lăng nén giận nói: - Ừ, nói đúng lắm. Vấn đề là ai chặt đầu ông ta? Là Uy Quốc Công phụng chỉ kê biên tài sản Ảm gia, hay là Kinh Sư Hoàng Am Hộ Pháp Tống đại tướng quân? Ặc..., Tống Tiểu Ái đỏ bừng mặt, cố chấp nói: - Chúng ta...có thể bẩm cáo Hoàng Thượng. Dương Lăng cười nói: - Trương Trung là Trấn Thủ Thái Giám vùng này, quyền hành rất lớn. Muốn chứng minh đào được vàng cát trong Ngải gia thì rất dễ dàng. Kể cả muốn tìm ra nhân chứng, vật chứng, chứng minh Ngải gia cất giấu cổ vật thì cũng dễ như trở bàn tay. Kiện lên Hoàng Thượng thì được ích gì? Có những chứng cứ đó rồi, thì việc Trương Trung xét hỏi Ngải gia cũng chẳng có tội, là người Ngải gia nghĩ quẩn mà tự vẫn đó chứ, chẳng thể đổ cái tội đó lên đầu Trương Trung được, nếu không thì sau này sao có thể trấn an Trấn Thủ Thái Giám các nơi khác? Huống hồ, còn có tên Lưu Cẩn gây trở ngại nữa. Tống Tiểu Ái giận đùng đùng nói: - Vậy, chúng ta cứ giương mắt mà nhìn sao? Đại nhân, Tiểu Ái chiến trường giết giặc, chưa bao giờ nương tay, nhưng khi nhìn cái thảm cảnh cả nhà tháng Giêng treo cổ tự vẫn đó, trong lòng đến giờ vẫn uất ức. Lẽ nào chúng ta nhắm mắt làm ngơ trước những họa hại đó? Cứ để ông ta lợi dụng chức vụ mà ngang nhiên hãm hại từng gia đình một, khiến bách tính nhà nát cửa tan? Dương Lăng trầm ngâm một lúc rồi nói: - Những việc này ta cần phải tìm hiểu tình hình kĩ càng hơn, sau đó mới có thể định đoạt được. Tiểu Ái, cái biến hóa khôn lường của quan trường còn gấp bội phần chiến trường. Ra tay không tính kĩ là dễ bị rơi vào bị động. Không thể nắm được chỗ trọng yếu, lại còn công toi mọi sự cố gắng. Chỉ có mỗi sự nhiệt tình thôi thì không đủ. Các ngươi tạm thời về nghỉ ngơi đi, đêm đã khuya rồi, ta còn phải viết tấu chương về việc kê biên tài sản Ảm phủ và Đại Thuận lập quốc ở Thắng Phương trấn. Bọn Tống Tiểu Ái bất đắc dĩ, đành phải chắp tay cáo từ. Dương Lăng chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong căn phòng trống rỗng một hồi, đoạn bỗng nhiên đi về phía cửa sổ, đẩy cánh cửa ra, gió lạnh từ bên ngoài ùa vào phả vào mặt. Hắn chậm rãi ngồi xuống trước cái bàn kê ở gần cửa sổ, mặc cho gió lạnh thổi, cầm bút viết tấu chương trình lên Hoàng Thượng. Dương Lăng viết hai bản tấu, một bản chỉ sơ lược nói về những việc phát sinh gần đây ở Bá Châu, việc kê biên do đó không thể hoàn thành đúng thời hạn, bản tấu này sẽ gửi trực tiếp đến Thông Chính ty, ước tính sẽ rất nhanh được chuyển tới chỗ Lưu Cẩn, còn khi thấy kẻ bị nhiều người ghét như hắn không kịp quay về, Lưu Cẩn thế nào cũng mừng thầm. Còn một bản tấu thì không nho nhã như vậy, nói là tấu, nhưng cũng giống như gia thư. Hắn trước tiên là hỏi thăm, chúc Tết Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng, sau đó mới nói rõ vì muốn bán tài sản Ảm gia, cố gắng bán được giá tốt, để tránh việc khi xây Hoàng Am phải động tới quốc khố, vì thế việc xử lí tài sản đất đai nhà cửa khá mất công sức cũng như thời gian, có những bảo vật quý giá còn phải vận chuyển đến những vùng trù phú ở Giang Nam để bán được giá tốt, cần phải phân loại từng cái một. Viết đến cuối, Dương Lăng không quên kể chuyện đám ngu dân tự xưng đế ở Thắng Phương trấn bị mình phát hiện, chỉ cần cử hai gia đinh đi là tóm gọn kẻ phản nghịch. Dương Lăng viết rất khoa trương thêu dệt, cứ như thể đang kể về trò chơi trẻ con vậy, đồng thời cũng cố tình nhắc tới sự kiện Hoằng Đế xử trí đám ngu dân năm xưa, nhằm hi vọng tiểu Hoàng Thượng Chính Đức xem xong cười bỏ qua mà không cần truy cứu ầm ĩ làm gì, không thì nếu coi nó thành đại án làm phản, là hàng trăm người bị tru di cửu tộc, e rằng hàng vạn người phải chịu cảnh máu chảy đầu rơi. Khi viết xong, Dương Lăng dừng bút trầm ngâm hồi lâu, rồi lại thêm vào một dòng cuối: - Bọn mã tặc ở Bá Châu đã tuyệt tích từ lâu, nhưng thần ở Bá Châu, kinh hãi nghe tin về bọn hại dân hại nước mà họa mã tặc không sao sánh được. Quan lại hủ bại, giả thánh hoành hành, cướp đường lúc ẩn lúc hiện, còn gây hại gấp chục lần mã tặc. Thần thấy con dân Hoàng Thượng chịu khổ như thế, trong lòng khủng hoảng lắm. Thần được Hoàng Thượng ân sủng, không dám không cúi mình tận tụy, ba thứ hại này không diệt, bách tính Bá Châu khó yên. Vậy thần xin đi dẹp loạn, nguyện núp dưới uy vọng của Bệ Hạ, trừ tham quan, diệt thảo khấu, giữ yên lành một phương. Để tránh bị lộ thông tin, kinh động đến bọn tham quan thảo khấu, khiến chúng có thời gian đề phòng, nên thần mật dâng bản tấu này, xin Hoàng Thượng ân chuẩn, cho phép thần tiết chế các quan viên phụ trách quân chính ở Bá Châu. Viết xong bản mật tấu, Dương Lăng thổi thổi vết mực. Trên phong bì tựa rằng "Nhất Tiên kính dâng Hoàng Thượng vạn tuế", sau đó thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa. Bầu trời bên ngoài trong trẻo, trăng sáng vằng vặc, một nhành hoa mai đu đưa trước gió, thân cây uốn lượn, bông thì còn ngậm e ấp, bông thì ngạo nghễ nở to. Đêm đã về khuya, không khí âm u tĩnh mịch. Gió thổi khiến cành cây lay động, những bông hoa đung đưa trong gió, trước mặt Dương Lăng mơ hồ hiện lên bốn thi thể lơ lửng trong không trung và ánh mắt có đôi chút thất vọng của Tống Tiểu Ái. Hắn chậm rãi đứng dậy, đứng chắp tay sau lưng, nhìn về phía màn đêm tĩnh mịch than dài một tiếng: - Mặt trời triều Minh vẫn mọc ở đằng đông, dòng nước xiết cũng chẳng thể vùi dập lòng người tráng sĩ. Bất luận ai coi Dương Lăng ta như con hổ mất nanh, đều sẽ phải trả cái giá thịt nát xương tan. ... Lưu Cẩn giận dữ, đập bàn chửi bới: - Hừm, vẫn không ngừng gây chuyện chọc ngoáy. Cái thằng ranh Dương Thận kia đã an phận rồi, lại tòi ra cái thằng Si Quỳ. Gã nói thế nào, chúng ta đã đi nhờ vả rồi, gã vẫn không chịu trình chiến công Du Lâm lên? Tiểu thái giám đứng cạnh cúi mình nói: - Vâng, Si đại nhân nói, năm nay biên thùy không có chiến sự lớn, báo công Du Lâm lên tới hơn một trăm hai mươi tướng lĩnh, chém một nghìn bốn trăm thủ cấp tướng địch, tuy nhiên trước đó đều không có báo cáo cụ thể về tình hình chiến sự, cho nên phải thẩm tra lại một phen, để tránh nhận bừa chiến công, thậm chí giết bách tính giả mạo quân địch. - Khốn kiếp! Khốn kiếp! Thể diện của ta mà gã dám xúc phạm, chỉ là một tên Cấp Sự Trung lục phẩm tép riu! Lưu Cẩn tức giận đến lông tóc dựng ngược, mắt mũi trợn trừng. Y đã đốc thúc Thần Anh gạ gẫm phía Du Lâm dâng cho y lượng lớn vàng bạc, thì gã sẽ đồng ý ghi công khao thưởng, tăng thêm quan lộc cho bọn họ, nào ngờ cuối cùng lại đổ bể bởi cái tên Cấp Sự Trung tép riu Si Quỳ. Lưu Cẩn oán hận chửi bới xong, hỏi: - Khi nào gã đi Du Lâm thẩm tra? - Sáng sớm mai sẽ đi theo xe ngựa của quân báo. Lưu Cẩn nhíu mày, nghĩ một hồi rồi cười lớn: - Sai người tặng quà cho gã, nếu gã chịu nhận mà bỏ qua việc này thì coi như ổn, nhưng nếu gã không chịu, sai người mang mấy thứ đến phủ gã dưới danh nghĩa gã gửi về, đợi gã về kinh thì bắt luôn với tội tham ô, nhận hối lộ, trực tiếp đưa đến Cẩm Y Vệ. - Vâng, vâng. Tiểu thái giám vội đáp, lúc này lại có một tiểu thái giám khác vội vã chạy vào, nói: - Công công, Quốc Tử Giám Tế Tửu Vương đại nhân tới, muốn gặp công công. - Hả? Quốc Tử Giám Tế Tửu? Gã đến làm gì? Lưu Cẩn thầm nghĩ: "Lẽ nào là đến dâng lễ?" Lưu Cẩn ngồi trên ghế, nói: - Gọi gã vào. Quốc Tử Giám Tế Tửu Vương Vân Phượng vội vã đi vào, khi thấy Lưu Cẩn vội bái sát đất nói: - Hạ quan Vương Vân Phượng bái kiến Lưu công công. Lưu Cẩn nheo mắt liếc y một cái, đoạn thong thả ung dung nói: - Ừ, đứng dậy đi, đến gặp ta có việc gì? Vương Tế Tửu vừa cười vừa nói: - Công công, hai hôm trước ngài có lệnh cho Quốc Tử Giám tăng thêm chỉ tiêu cho học sinh Thiểm Tây, còn bảo lãnh cho 6 văn sinh, 2 võ sinh... - Đúng thế, thì sao? Lưu Cẩn mất kiên nhẫn hỏi. Vương Vân Phượng hễ thấy sắc mặt Lưu Cẩn, trong lòng có chút sợ sệt, lắp ba lắp bắp nói: - Việc này...tăng thêm chỉ tiểu Thái học sinh Thiểm Tây đã khiến đám Thái học sinh nhốn nháo cả lên, mấy đứa học sinh mà công công bảo lãnh gửi đến, ở trong Quốc Tử Giám, ờm...không được ngồi yên cho lắm. Hôm qua còn đánh bị thương một Thái học sinh Quý Châu, đến nay có rất nhiều người tìm hạ quan kháng nghị, đến cả mấy vị Ti Nghiệp, Chủ Bộ cũng rất là bất mãn... Lưu Cẩn đang phiền lòng vì phải nghĩ về việc đề bạt cho hơn một trăm tướng lĩnh đã đút lót cho y. Mà đó đâu chỉ là đút lót. Thế lực của y trong quân đội trước giờ luôn thấp kém, Dương Lăng tuy đã lui, nhưng ảnh hưởng thì còn lớn hơn yb nhiều. Chỉ có nhanh chóng đề bạt những tướng lĩnh y tiến cử thì mới có thể khiến quân đội nghe lời chỉ huy của y, đó mới là việc lớn. Đám thư sinh Quốc Tử Giám còn gây thêm phiền phức gì đây? Lưu Cẩn đập bàn cái ầm, tức khắc đứng dậy, chỉ mặt Vương Vân Phượng chửi: - Khốn kiếp! Rác rưởi! Cái đồ vô dụng! Ta còn bao nhiêu việc quốc gia đại sự phải lo. Cái việc vặt vãnh cỏn con như vậy cũng bày đặt mang đến đây làm phiền ta. Thái học sinh không lo mà đọc sách, còn chõ mõm cái gì? Không yên phận thì cuốn gói mà cút đi! Ti Nghiệp, Chủ Bộ bất mãn? Được lắm, còn mấy chức quan vặt vãnh đang lo không có người đảm nhận đây. Một ngày số người đến xin chức đông như kiến cỏ, có ai là không phục? Đuổi hết bọn chúng đi, mau dọn chỗ cho người tốt đến. Còn ngươi nữa, cái chức Tế Tửu ngươi làm ăn kiểu gì? Việc lớn thì không xử lí được, tế tửu tế tửu, lấy vật gì mà tế? Mẹ, cái đồ lông lợn. Vương Vân Phượng bị chửi cho quỳ cái rụp xuống, cuống quýt dập đầu nói: - Hạ quan biết tội, hạ quan biết tội. Y vội vã lau mồ hôi, sợ Lưu Cẩn trong cơn điên mà phế chức của y thật. Đoạn vội vàng nịnh hót: - Hạ quan tới, không phải là để kể khổ với công công, là thấy có nhiều lời oán thán của Thái học sinh và quan viên, đều là vì không hiểu nỗi khổ tâm của công công. Công công làm việc nghiêm minh, lệnh ban như sơn, nhưng quan viên văn võ thì cố chấp thủ cựu, không biết lĩnh hội, cho nên... Y ngẩng đầu lên nhìn Lưu Cẩn, cười bồi nói: - Cho nên hạ quan muốn...mời công công đến Thái Học thị sát, giảng cho Thái học sinh về quốc gia đại sự, cho bọn họ thấy nỗi khổ tâm của công công. Ngoài ra, hạ quan còn muốn kết hợp cùng mấy vị đại nhân biên tập những lời phát biểu, chính lệnh, các yêu cầu và các ví dụ thực tế giải quyết công vụ của công công thành 6 bộ sách theo trình tự, để làm pháp lệnh ban bố toàn quốc. Các quan viên có cái mà chấp hành, sẽ không làm việc mù quáng nữa. Vương Vân Phượng lui ra ngoài, vừa lúc gặp một văn nhân áo trắng mũ cao, ăn mặc tao nhã, tay áo bồng bềnh đi vào. Y không nhận ra người này là ai, nhưng nhìn khí phách oai phong đường hoàng, điềm tĩnh tự nhiên, mắt nhìn khung cửa, dường như là một nhân vật phi thường nào đó, liền cúi đầu hành lễ. Đây gọi là đa lễ không đáng trách, Vương Vân Phượng hành lễ xong, ngẩng đầu lên định nói vài câu, nhưng người vừa rồi đã biến đâu mất, quay đầu nhìn chỉ thấy người đó đã vào đến đại sảnh từ lâu, đoạn nghĩ chắc người đó quen đi như vậy, còn ngây người ra nghĩ sao không bị cái bậc cửa ngáng chân nhỉ, hiệu trưởng Vương đành sờ sờ mũi ngại ngùng đi thẳng. Lưu Cẩn thấy Lư Sĩ Kiệt xem chừng rất vui, y rất kính trọng vị danh sĩ đồng hương này, thấy ông ta đến bèn vội vàng tươi cười nói: - À, tiên sinh đến rồi, mời ngồi đi. Người đâu, dâng trà. - Tiên sinh, việc xây cung đến đâu rồi? Lư Sĩ Kiệt vừa mới ngồi xuống, Lưu Cẩn đã không đợi được hỏi luôn. Lưu Cẩn đến nay quyền cao chức trọng, uy danh khắp thiên hạ, không ai dám kháng cự lại y. Trong cơn đắc ý, bèn muốn làm rạng rỡ tổ tông, khẩn cầu trường sinh. Y cho xây Huyền Minh Cung ở ngoài Triều Dương Môn, thờ tự Huyền Minh Hoàng Đế. Do tài chính trong triều khó khăn, nên Chính Đức vốn không đồng ý. Lưu Cẩn bèn dùng hoa ngôn xảo ngữ, nói rằng công chúa điện hạ Vĩnh Phúc để cầu phúc cho Thái Hoàng Thái Hậu đã xuất gia tu hành, cảm động càn khôn, lại thỉnh nguyện yêu cầu xây một cung điện hoành tráng để cầu phúc cho Thái Hoàng Thái Hậu, để thể hiện lòng kính yêu của chúng thần dân. Nếu Hoàng Thượng không đồng ý, e là khó tránh khỏi làm tổn thương đến tấm lòng bách tính đó. Chính Đức nghe vậy rất vui, liền hạ chỉ cho Lưu Cẩn toàn quyền lo liệu, xây Huyền Minh Cung ở ngoài Triều Dương Môn. Lấy điều đó làm cái cớ, Lưu Cẩn đã chiếm đoạt hàng nghìn mẫu đất ở ngoài Triều Dương Môn. Hoàng Am ở ngoại ô phía tây Kinh Thành còn chưa động thổ, phía Triều Dương Môn đã hừng hực khí thế làm việc ngay giữa mùa đông lạnh giá. Lưu Cẩn cho phá dỡ gần hai nghìn nhà ở của người dân, khai quật gần ba nghìn ngôi mộ. Lưu Cẩn không dám quá đáng, đến mức để bách tính chết cóng giữa mùa đông, tiền chuyển nhà và đất tái định cư thì y phê cả, nhưng đất chôn thì phải trả thêm tiền, như vậy, ngoài số ít quan viên sĩ đại phu có tiền mua đất ra, đại bộ phận dân thường căn bản không có tiền mua đất chôn, đến nỗi xương trắng nổi nhan nhản trên mặt đất. Tiếng chửi rủa của bách tính vang vọng không ngớt trong thành. Sau đó, Lưu Cẩn lại phái người của Đông Xưởng đến từng nhà thương gia, phú hộ vận động quyên góp. Thử hỏi mấy thằng sai dịch của Đông Xưởng mang cái nụ cười giả tạo đến nhà người ta xin tiền, mồm năm miệng mười nói rằng làm thế là để thể hiện lòng hiếu thảo, xây Huyền Minh Cung vì sự an nguy của phượng thể Thái Hoàng Thái Hậu, thì ai không dám nôn ra, ai không dám nộp tiền? Lưu Cẩn trong mắt Chính Đức quả nhiên là cao thủ trong việc thu xếp tài chính. Dùng biện pháp này, chỉ trong có nửa tháng ngắn ngủi đã huy động được hơn bốn mươi vạn lượng bạc, đủ để xây một đại điện đồ sộ hoành tráng. Lưu Cẩn nhân cơ hội này, đánh tiếng với Chính Đức, nói rằng y vì Thái Hoàng Thái Hậu xây cung cầu phúc, trong lòng nhớ về phụ mẫu thân sinh, thường đến đêm khóc thầm, trong lòng bất an, nhưng vì phải hầu hạ Hoàng Đế mà không thể làm tròn đạo hiếu, xin Chính Đức Hoàng Đế niệm tình y hầu hạ bấy nhiêu năm nay mà ban tặng một bức hoành, để lập một miếu thờ trước mộ phần của phụ mẫu, bày tỏ niềm vinh quang. Lời yêu cầu này Chính Đức đồng ý ngay, bèn tự tay viết hai chữ "Trung Nghĩa" trao cho Lưu Cẩn. Lưu Cẩn nhận lấy đề tự của Chính Đức, tức thì lập giả chiếu, mệnh lệnh quan địa phương Thiểm Tây mời thầy phong thủy đi thăm dò, tìm ra mảnh đất có phúc, lấy năm chục mẫu đất ra xây dựng, lập cho phụ mẫu Lưu Cẩn mộ đá, từ đường bằng đá có bia đình bảo vệ, trong quần thể còn cho xây thêm miếu Nghĩa Dũng Vĩnh An. Cả lăng mộ dựa theo quy cách của Vương Hầu. Quan phủ địa phương Thiểm Tây dù có tận lực phụng mệnh, cũng không lấy đâu ra nhiều bạc đến thế. Hơn nữa đó là quê hương mình, Lưu Cẩn đối đãi rất tốt với đồng hương, không nhẫn tâm bắt phụ lão quê mình phải bỏ tiền, số tiền này đương nhiên là bổ đầu bách tính trong kinh thành. Lưu Cẩn mượn cớ xây Huyền Minh Cung đã bóc lột được hơn bốn mươi vạn lượng bạc, trích ra tám vạn lượng trong đó gửi về Thiểm Tây, dùng để xây mộ, lập từ đường cho phụ mẫu. Lưu Cẩn cũng biết thuộc hạ của y đứa nào cũng tham lam, nếu như giao hết việc cho bọn chúng, thì tất sẽ bị lớp lớp xà xẻo, mà Lư Sĩ Kiệt thì không tham tiền, cho nên giao hết mọi việc cho ông ta quản lí. Lư Sĩ Kiệt chắp tay nói: - Lưu công, kinh phí dùng để xây Huyền Minh Cung còn thiếu gần 10 vạn lượng, bây giờ vừa mới bắt đầu thi công, nên cũng không vội, chỉ là đến giai đoạn cuối, tất sẽ thiếu thốn, chi bằng sớm chuẩn bị sẽ tốt hơn. Lưu Cẩn kinh ngạc, buột mồm nói: - Còn thiếu nhiều vậy? Lúc đầu chẳng phải... Y nói được nửa câu thì mới nhớ ra là mình đã bòn rút mất 8 vạn lượng, nên ngân lượng bị thiếu là đương nhiên rồi, đành chữa lại: - Đã như vậy, thì lại cử người đến nhà thương nhân, phú hộ vận động là được chứ gì. Lư Sĩ Kiệt khuyên nhủ nói: - Lưu công, ý này chỉ e không ổn, ở đây dù sao cũng gần Thiên Tử, rất nhiều thương nhân, phú hộ đều có quan hệ mật thiết với hoàng thân quốc thích. Lần thu tiền trước đã khiến bọn họ bất mãn lắm rồi, lần này lại bắt nộp nữa thì lời oán thán của đám người đó truyền đến ông trời cũng nghe thấy mất... Lưu Cẩn đột nhiên bừng tỉnh: - Tiên sinh lo lắng đúng lắm. Y nhíu lông mày nói tiếp: - Thỏ còn không ăn cỏ gần hang, ta không thể quá đáng với kinh thành, nhưng mười vạn lượng không phải là số ít, lẽ nào bắt ta tự rút hầu bao? Thật đáng ghét! Tuần Phủ các nơi phải còn vài tháng nữa mới vào kinh, không thì số bạc này... Đoạn mắt y sáng rực lên nói: - Đúng rồi, Trương Trung trình báo lên nói rằng Bá Châu có mỏ vàng, xin được thăm dò, không biết tình hình bây giờ thế nào rồi. Ha ha, việc này cứ giao cho gã đi. Tiên sinh chớ vội, ta lập tức lệnh Trương Trung gom đủ 10 vạn lượng bạc, trong 2 tháng sẽ tiếp tế cho kinh thành! Huyền Minh Cung là xây cho Thái Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thượng cũng rất quan tâm, nên tuyệt đối không được trì hoãn. ... Phàn Mạch Ly thấp thỏm lo lắng nói: - Trương công công, hiện giờ giong chống khua chiêng như vậy e là không phù hợp cho lắm. Uy Quốc Công mặc dù không xen được vào việc của chúng ta, nhưng lại là người gần gũi Hoàng Thượng, ngộ nhỡ gã có nói gièm vài câu, Hoàng Thượng nổi giận thì cũng chẳng hay ho gì. Như bây giờ, nông dân vào thành bán rau bán gạo, và các mặt hàng lương thực thực phẩm khác, thu thuế cao quá, ra thành vào thành đều bị thu tiền, khiến dân chúng không dám vào thành nữa. Các cửa hàng trong thành không dám mở cửa, khắp nơi hoang vắng tiêu điều. Thế còn chưa nhằm nhò gì. Cái bọn sai dịch mà công công chiêu mộ, đại đa số là lũ du côn vô lại khắp nơi. Bọn người đó một mặt thu thuế giúp công công, một mặt tự kiếm tiền bỏ túi riêng, khiến dân tình oán thán. Đám sai dịch chiêu mộ từ mạn Cố An kia, có đứa thì công khai thanh toán thù riêng, chẳng cần tìm một lí do nào cả, thậm chí còn giả danh nghĩa công công, đánh đập tiểu quan lại địa phương, cướp bóc thương nhân qua đường, làm dân chúng khắp nơi uất hận. Bách tính Bá Châu vốn thượng võ hiếu chiến, nếu cứ tiếp tục thế này e rằng sinh loạn mất. Trương Trung thì không cho là như vậy, trợn ngược mắt nói: - Sinh loạn cái gì? Cái lũ điêu dân! Chắp tay đưa tiền cho bọn giả thần giả thánh thì cam tâm tình nguyện. Còn đưa cho ta thì khóc cha la mẹ. Ngươi chớ có lo lắng, lần này là mệnh lệnh của Lưu công công, là để xây Huyền Mình Công cho Thái Hoàng Thái Hậu cầu phúc, việc này Hoàng Thượng cũng biết, ta càng dốc sức thì càng thể hiện lòng trung thành. Ha ha, mà ngộ nhỡ có vấn đề gì thật, thì đều là vì tấm lòng trung thành với Hoàng Thượng nên làm việc quá đà. Ta lại là gia nô của Hoàng Thượng, cùng lắm thì bị quở trách vài câu, thế thì chỉ có càng được thêm tín nhiệm thôi; ngươi không phải sợ, yên tâm mà ngồi ở nha môn Tri Châu, có kẻ nào dám kiện cáo, thì cứ cho đi gặp Diêm Vương luôn. Trương Trung nói xong hỏi lớn: - Uy Quốc Công vẫn chưa chịu nhận tài sản của Ảm gia sao? Phàn tri châu bất đắc dĩ ngồi xuống ghế, nói: - Nhận, nhận rồi, hắn rất tỉ mỉ, xem từng mảnh đất một, tra từng đồ vật một, hết nửa ngày mà cũng chẳng tra được bao nhiêu. Tiếp đó lại có đám hương thân đã từng bị bọn giả thần thánh lừa đảo ra mặt cảm tạ, lại mời yến tiệc. Đến bây giờ ngay cả nửa số tài sản cũng chưa tra xong. Việc này thì Trương Trung biết rõ, bởi Trương Mậu cũng đã từng nói với ông ta. Trương Mậu thực ra không phải huynh đệ đồng tộc của ông ta, chỉ là bởi cùng họ, lại hàng mèo mả gà đồng với nhau cả nên mới tương hợp, dùng huynh đệ làm cách xưng hô. Khi ra ngoài đối ngoại thì vẫn tự giới thiệu là huynh đệ đồng tộc. Biểu đệ của Trương Mậu là Giang Bân từ Đại Đồng tới tiếp quản quân đội của nguyên Chỉ Huy Sứ Chu Đức An, nhậm chức Bá Châu Du Kích Tướng Quân. Y và Dương Lăng là bạn bè cũ, có mối quan hệ này, Trương Mậu và Dương Lăng bây giờ rất thân thiết. Hôm nay Trương Mậu và biểu đệ Giang Bân mở tiệc mời Dương Lăng, còn phái người dò hỏi xem hắn có tới dự tiệc không. Trương Trung cười ha hả nói: - Chỗ Dương Lăng thì ngươi không phải lo, hắn bây giờ là một Quốc Công có tiền nhưng không có quyền, khi làm công sai thì còn oai phong chút, đó cũng chẳng phải là mượn cớ vơ vét sao? Chỉ là hắn dù gì cũng là Quốc Công, không thể hạ mình mà cướp trắng giống như ta được. Cái con gà trống chết tiệt Ngải Kính kia, cả nhà treo cổ, chả phải là do hắn phát hiện, rồi sau đó đưa án đến chỗ nha môn Tri Châu ngươi sao? Dương Thanh Thiên? Ngươi xem hắn quan tâm quái gì đến cái án này không? Còn chẳng phải là cả ngày chỉ biết uống rượu tầm hoan? Ông ta quay người vỗ vai Phàn Mạch Ly, nói: - Không phải lo lắng, có ta ở đây, đảm bảo người vô sự. Giờ ta phải đi Cố An xem tình hình đào mỏ thế nào, để hôm khác mời ngươi đến uống rượu sau. Phàn Mạch Ly thấy Trương Trung không nghe khuyến cáo, chỉ đành cười gượng cáo từ ra về, Trương Trung tiễn Phàn tri châu xong, lập tức trầm mặt xuống nói với quản gia Hàn Bính: - Vừa rồi ngươi nói Cố An Thôi Quan Hoa Ngọc đánh người của ta? Hàn Bính đáp: - Công công, không chỉ có vậy, cái thằng Thôi Quan đó không biết điều, người của chúng ta đến Cố An đào quặng, đám điêu dân đến chỗ Hoa Thôi Quan kiện cáo, y thường cản trở người của ta đào hố trong nhà của hương thân phú hộ. Hôm qua chúng ta cử Thuế Lại xuống nông thôn thu thuế, bạo dân phản kháng, đuổi đánh Thuế Lại. Người của ta phi ngựa tới sở nha báo án, cầu viện cử người trợ giúp, cái tên Hoa Thôi Quan đó lại lấy cớ người của ta phi ngựa xông thẳng vào nha môn là phạm luật, nên trói lại đánh một trận. Trương Trung phẫn nộ, nói lớn: - Cái gan chó của thằng Hoa Ngọc này to lắm, dám không coi ta ra gì! Hàn Bính thêm dầu vào lửa nói: - Công công, tiểu nhân thấy tên Hoa Ngọc này chắc hẳn là đã nhận đút lót của đám phú hộ kia rồi. Có tên này chống lưng, nên đám phú hộ hương thân Cố An mới dám chống đối Thuế Lại của ta. Do tên này vướng chân vướng tay, nên các huynh đệ mới không thu được tiền, vừa rồi sao công công không nói với Phàn đại nhân chứ. Trương Trung cười lạnh nói: - Nói thì được ích gì? Đó là Cố An Thôi Quan, chức vụ mặc dù thấp hơn Phàn Mạch Ly, nhưng họ Phàn kia không thể bãi chức hắn được. Đi, tới Cố An, ta trực tiếp gặp cái thằng Hoa Ngọc này, xem xương cốt gã cứng, hay là roi của ta ác. Ở phủ Trương Mậu, chủ khách tận hoan. Thân phận công khai của Trương Mậu cũng là một đại địa chủ, đại thân hào, biểu đệ y là bạn cũ của Dương Lăng. Trương Mậu biết vậy trong lòng vui lắm, đối với y mà nói, Dương Lăng là một nhân vật hô mưa gọi gió trong kinh thành, có duyên kết giao, thế nên chỉ có lợi chứ không có hại, nhờ vào quan hệ của biểu đệ, hôm nay long trọng mở tiệc, khoản đãi Dương Lăng. Dương Lăng vì muốn kéo dài thời gian dừng chân ở Bá Châu, nên đã hạ mình đi dự tiệc. Hôm nay là lời mời của Giang Bân, Dương Lăng đang kiểm tra từng hạt một trên hai sợi dây chuyền mà nghe nói mỗi sợi có tới một trăm linh tám hạt trân châu của Ảm gia tại nha môn Tri Châu. Vừa nghe có người mời đã bốc đít đi luôn. Phàn Mạch Ly nhân cơ hội đó, đã tranh thủ thời gian tới chỗ Trương Trung kể khổ. Trương Mậu không có cái tính bẩn thỉu của các hương thân địa chủ, mà đối nhân hào sảng phóng khoáng. Dương Lăng nom y vậy cũng thuận mắt. Trong lúc nói chuyện mới biết, thì ra tổ tiên của Trương Mậu không phải người Hán, mà là hậu duệ của Đóa Nhan Tam Vệ vào thời kì Vĩnh Lạc năm xưa di cư vào nội địa. Lúc đó có một số lượng lớn hậu duệ của Đóa Nhan Tam Vệ được bố trí tại Bá Châu, tổ tiên Trương mậu đổi sang họ người Hán, định cư luôn ở đây, trải qua hơn trăm năm thì lập được cơ nghiệp này. Giang Bân gật gù đắc ý tâng bốc mối quan hệ năm xưa giữa biểu huynh và Dương Lăng ở Kê Minh Dịch. Năm đó Dương Lăng còn là một sư gia ở nha môn tri huyện, trong trận Kê Minh Dịch thì căn bản không có chiến tích gì, nhưng với cái miệng của Giang Bân, thì Dương Lăng sinh ra đã là một đại tướng hữu dũng hữu mưu. Trận Kê Minh Dịch mà không có Dương Lăng, thì sớm bị san thành bình địa. Dương Lăng nghe thấy buồn cười, Trương Mậu thì không hoài nghi gì. Dương Lăng ở Đại Đồng, ở Giang Nam, ở Malacca cho tới Tứ Xuyên đều là một vị tướng hữu dũng hữu mưu. Có ai ngờ là cái thời Kê Minh Dịch đó, hắn mới chỉ là một thằng nhãi ranh. Nghe những gì Giang Bân giới thiệu, Trương Mậu khâm phục lắm, liên tục nâng chén kính rượu Dương Lăng. Ba người vui vẻ mấy chén, Giang Bân nhân lúc nhàn chuyện hỏi: - Quốc Công, khi ta tới nha môn tri châu mời tiệc, có gặp Thái Giám trong triều đi ra, vậy trong triều có hạ ý chỉ gì vậy? Lẽ nào là xử lí việc loạn dân Thắng Phương trấn xưng đế? Dương Lăng thực ra đêm qua đã nhận được mật chỉ của Chính Đức. Hoàng Đế Chính Đức thấy Dương Lăng lén lén lút lút thông qua Đường Nhất Tiên trình mật tấu lên, lại muốn đi vi hành xử án, nhất thời cao hứng, lập tức nóng lòng muốn tới Bá Châu gặp hắn, cùng nhau trị tham quan, bắt đạo tặc. Chỉ là lúc đó miệng lưỡi của tam đại học sĩ thì y không thèm để ý, còn cái miệng của Đường Nhất Tiên thì y chịu không nổi. Chủ ý vừa mới nói ra là đã phải nghe tiếng sư tử gầm, gầm đến mức Chính Đức sợ vãi linh hồn, ngoan ngoãn bỏ chủ ý xuất kinh làm loạn, liền hạ chỉ trả lời Dương Lăng, lệnh hắn tiết chế quan lại, binh mã Bá Châu, toàn quyền phụ trách các việc liên quan. Đáng thương cho hiệu trưởng Đại học Trung Ương này đã bị Lưu Cẩn dọa cho nói năng bậy bạ cả lên, lại còn để một tên nửa chữ cũng không biết như Lưu Cẩn đến giảng bài cho đám Thái học sinh trong bụng một bồ kinh luân, thế có đau xót không chứ? Nhưng Lưu Cẩn thì lại không hề thấy mình không đủ tư cách. Nghe xong chuyển giận thành vui, cười ha ha nói: - Đứng dậy đi, ừ...đến Thái Học thị sát, giảng bài cho Thái học sinh? Y nghĩ rằng cái chủ ý này quả là không tồi, bèn xúc động gật đầu nói: - Vậy được, ngươi sắp xếp đi, ta nhất định sẽ thu xếp thời gian bận rộn để đến Quốc Tử Giám giảng bài cho đám Thái học sinh lười biếng kia, giảng về pháp lệnh của triều đình, về quy tắc làm quan làm người. Còn việc biên soạn những lời nói và việc làm của ta thành sách để ban bố pháp lệnh toàn thiên hạ, thì cũng là một đề nghị rất hay, ngươi mau chóng thu xếp, kinh phí cần thiết cho việc biên tập, in sách, ta có thể bảo Bộ Hộ cấp cho, ha ha, làm tốt thì ta nhất định sẽ tấu lên Hoàng Thượng, phong thưởng thật hậu hĩnh. Vương Vân Phượng mừng rỡ ra mặt, không ngờ là không những hóa nguy thành an, lại còn nhờ quả nịnh hót láu cá này mà được lòng ưu ái của công công, đoạn nhanh chóng tuân mệnh, rồi lại tán dương một phen rồi mới vội vàng lui ra, lo việc Lưu Cẩn đến Thái Học giảng bài và việc biên soạn cuốn "Lưu Thị văn tập". Trong ý chỉ cũng có đề cập đến việc xử lí đám ngu dân xưng đế. Chính Đức tuổi còn nhỏ, nhưng không dễ dãi như Hoằng Trị. Với y, ban ngày không thể có hai mặt trời, nước không thể có hai vua. Bất luận quốc gia lớn nhỏ, hay có phải trò đùa không, tự ý xưng đế thì là con đường chết. Nếu Đại Minh nhân nhượng một kẻ tự xưng Hoàng Đế bình yên vô sự sống sót, thì chả bằng cổ vũ cho những kẻ khác làm phản sao? Cho nên ý chỉ mà Chính Đức gửi cho Dương Lăng nói rõ, tên Triệu Vạn Hưng tự ý xưng đế buộc phải tội chết, còn về Thừa Tướng tả hữu, Lục Bộ Thượng thư và đại tướng quân thì nhốt hết vào đại lao. Những người khác và nữ nhi yếu đuối, Hoàng Thượng khai hồng ân, không truy cứu nữa. Sáng sớm nay tới nha môn Tri Châu kê biên tài sản, vừa lúc thánh chỉ về việc xử lí vấn đề này cũng tới nha môn Tri Châu, Dương Lăng nghe lại một lần, từ giờ phút này không cần giấu giếm nữa. Dương Lăng gật đầu nói: - Hay lắm, đám ngu dân này, mặc dù đáng trách nhưng cũng đáng thương, đương kim Hoàng Thượng nhân hậu, hạ chỉ xá miễn những kẻ vô tri a dua theo, nhưng với chủ mưu xưng đế Triệu Vạn Hưng, để làm gương cho dân chúng, thì phải... Dương Lăng lắc đầu, Giang Bân thì không quan tâm đến sự sống chết của những kẻ ngu ngốc kia, cái mà y quan tâm chỉ là một mình Vương Mãn Đường mà thôi. Giang Bân không khỏi căng thẳng nói: - Nói như vậy, kẻ cầm đầu thì không thể xá miễn, thì cái vị Vương cô nương tự xưng Hoàng Hậu cũng sẽ bị chặt đầu sao? Dương Lăng nói: - Việc này chắc là không, một nữ nhi thì có thể gây ra được loạn gì? Hoàng Thượng hạ chỉ, kẻ cầm đầu phải diệt, những kẻ tự nhận quan nhị phẩm trở lên thì nhốt vào Cáp Mật Vệ, những người còn lại và nữ nhi thì miễn tội hết. Dương Lăng nói đến đây, nhíu lông mày nghi hoặc hỏi: - Mà cũng kì lạ, ta thấy lạ ở chỗ sao không tống vào Liêu Đông, lại nhốt vào Cáp Mật Vệ? Hoàng Thượng sao lại nghĩ đến cái chỗ đó? Thật là kì lạ. Những phạm nhân trong vòng 2 năm nay theo ý của Dương Lăng thì đều gửi về Liêu Đông, căn bản không có tù nhân nào gửi tới Tây Vực. Hơn nữa Cáp Mật Vệ hiện tại không hề nằm trong tay Đại Minh. Cáp Mật Vệ được thành lập vào năm thứ 4 Vĩnh Lạc. Năm thứ 9 Thành Hóa, Thổ Lỗ Phiên chiếm mất Cáp Mật Vệ, lại qua 9 năm, Đại Minh đoạt lại Cáp Mật Vệ. Từ đó, Đại Minh và Thổ Lỗ Phiên hình thành thế giằng co ở Cáp Mật. Năm thứ nhất Hoằng Trị, Thổ Lỗ Phiên lại cướp được Cáp Mật Vệ, năm thứ 4 Hoằng Trị, Đại Minh thu hồi đất cũ, năm thứ 6 Hoằng Trị, Thổ Lỗ Phiên 3 lần chiếm Cáp Mật Vệ, năm thứ 8 Hoằng Trị lại thu hồi lại được. Rồi lại đột ngột thất thủ. Năm thứ 10 Hoằng Trị, lại thu hồi Cáp Mật Vệ, nhưng tới năm thứ 18 Hoằng Trị, nhân lúc Hoằng Trị băng hà, thiết kị dân tộc Thát Đát tập kích Cửu Biên, Thổ Lỗ Phiên xuất quân lại một lần nữa đoạt được Cáp Mật. Trong lịch sử, Đại Minh từ lúc này không còn khi nào thu hồi được Cáp Mật nữa, đại quân nhiều lần thử tiến công, nhưng đều chỉ còn cách lui về giữ Gia Dự Quan. Trải qua gần 100 năm liên tục tranh đoạt, Đại Minh cuối cùng đành bất đắc dĩ từ bỏ Cáp Mật Vệ, từ bỏ yếu đạo trấn giữ yết hầu Tây Vực này. Mà trước mắt, Đại Minh đang cố gắng thu hồi Cáp Mật, đồng thời để kiềm chế dân tộc Ngõa Lạt, ép họ tranh đoạt thảo nguyên với Thát Đát. Mặc dù thành Cáp Mật đã mất, nhưng Dương Lăng và Hoàng Đế ở kinh thành lại định ra thế xui hổ đấu hổ, tọa sơn quan hổ đấu, lấy thời cơ đó làm suy yếu Thát Đát, đồng thời vẫn lệnh cho đại quân trấn thủ ở gần Cáp Mật Vệ, vừa có thể lựa thời cơ thu hồi Cáp Mật Vệ, vừa có thể gia tăng áp lực đối với Ngõa Lạt bất cứ lúc nào. Bây giờ không phải là lúc dùng binh quy mô lớn với Thổ Lỗ Phiên. Những vấn đề khác thì ổn, chỉ có cái là thiếu tiền, các biện pháp cải thiện thực lực quốc gia cần phải chờ hiệu quả, ước tính cũng phải mất vài năm. Khi tiềm lực quốc gia Đại Minh đủ mạnh, mỗi lần thu hồi Cáp Mật ít nhất cũng phải dùng từ 2 đến 4 năm để chỉnh đốn quân bị. Theo tính toán của Dương Lăng, dù có điều tinh binh mãnh tướng viễn chinh tham chiến, thì việc đoạt lại Cáp Mật Vệ vẫn không phải là việc ngày một ngày hai có thể hoàn thành. Dụng binh vào thời điểm không thích hợp, mục đích đúng đắn cũng sẽ bị coi là đội quân hiếu chiến, chỉ tổ hại dân hại nước. Nhất cử nhất động của Hoàng Đế, rất nhiều việc lặt vặt cũng có thể dự báo mục đích và quan điểm của ông ta. Dương Lăng rất lo lắng đây là những biểu hiện Chính Đức đang chuẩn bị động binh với Cáp Mật Vệ. Tuy nhiên nếu như y thực sự có ý nghĩ đó, Tiêu Phương đóng giữ ở kinh thành không thể không biết tin, cho nên Dương Lăng vô cùng hoang mang. Hắn nào biết đây đều là ý nghĩ nhất thời của Lưu Cẩn. Lưu Cẩn nghe nói có người tự xưng Hoàng Đế, phẫn nộ thể hiện lòng trung của mình với Chính Đức đế, yêu cầu khám nhà, tru di những kẻ phản nghịch đó. Không ngờ Chính Đức đã xem mật thư của Dương Lăng, xem trước thì được tiếp thu, nên không muốn chém giết làm to chuyện làm gì. Lưu Cẩn bất đắc dĩ, đành phải tìm kẽ hở trong lời của Chính Đức mà xen vào. Chính Đức chỉ nói là nhốt vào đại lao, chứ không nói dẫn đến đâu. Lưu Cẩn nhớ tới những cuộc xung đột liên miên của Cáp Mật Vệ với Thổ Lỗ Phiên, toàn là đại binh đóng quân. Do chinh chiến xa nhà, binh sĩ khỏe mạnh cũng vì ốm đau, bệnh dịch mà chết quá một phần ba. Nếu như tống vài tên tội đồ ra đó, bọn chúng sẽ vì không chịu nổi điều kiện gian khổ, mà sẽ sảng khoái tự thưởng cho mình một đao kết liễu. Thế là liền tự ý thêm ba chữ "Cáp Mật Vệ" vào thánh chỉ, tống hết tả hữu Thừa Tướng, Lục Bộ Thượng Thư của nước Đại Thuận tự xưng, và cả cái tên Uy Võ đại tướng quân ra biên cương đùa với thần chết. Giang Bân nghe nói Hoàng Đế sẽ xá miễn cho đại tội của nữ nhi xinh đẹp kia, trong lòng mừng vui lắm. Y ban đầu lo lắng đây là đại án phản nghịch, không biết Hoàng Thượng phán quyết ra sao, vị nữ nhân kia dù có xinh đẹp đến đâu thì cũng là khâm phạm, dù có mong muốn lợi dụng chút ít cũng được, nhưng cũng không thể đùa với cái đầu của mình, vì thế cho dù trong lòng không đành, nhưng từ khi nàng bị nhốt vào đại lao, thì không còn ý nghĩ động tới nàng nữa. Lúc này, khi nghe tin Hoàng Thượng phán quyết nàng vô tội mà được thả, cái lòng dạ trăng hoa của Giang Bân lại nhất thời nổi lên, chồng của nàng sắp bị chém rồi, nàng lại là vợ của khâm phạm, còn mình đường đường là Du Kích Tướng Quân, việc đưa nàng về phủ làm thị thiếp lại chẳng dễ lắm sao? Giang Bân nghĩ đến đây, nhất thời trong lòng ngứa ngáy, hận không thể chắp cánh bay thẳng vào trong ngục nói chuyện yêu đương với mĩ nhân kia luôn một phen. Giang Bân thầm nghĩ: "Ý chỉ của Hoàng Thượng không thể truyền vào trong ngục nhanh vậy được, nha môn Tri Châu cần phải sắp xếp sai nha, đóng xe tù, để áp giải đám tù nhân này đi Tây Vực xa xôi cũng phải chuẩn bị mất mấy ngày. Nếu như ta vào trong ngục dọa khám nhà chém đầu một phen, với một người phụ nữ bình thường không hiểu biết như nàng, chắc chắn phải vô cùng hoảng sợ. Đến lúc đó, ta lại đánh tiếng đồng ý cứu nàng thoát tội, để nàng phải chủ động cầu xin ta... Ha ha, đợi nàng ra ngoài rồi, còn không cảm ơn đại đức của ta? Ừ...không chừng ở trong ngục, ta có thể dụ dỗ tiểu nương tử xinh đẹp kia phục vụ ta một phen, tận hưởng cái hương vị đê mê mà mĩ nương kia đem lại. Tiểu nương tử này người đẹp thịt non quá, ha ha ha... Dương Lăng đối với việc giải tù nhân đến Cáp Mật Vệ thì suy nghĩ trăm lần không có lời giải, chỉ còn cách tạm để việc đó trong lòng. Hắn gác lại tâm sự, nâng chén rượu lên nói: - Tết nhất rồi, không nói chuyện nhuốm mùi máu tanh nữa, Giang huynh, chúng ta...Giang huynh...? Dương Lăng kì quái nhìn Giang Bân, đội vũ nữ trong cuộc nói chuyện vừa rồi đã rút lui cả, Giang Bân đang nhìn cái gì vậy? Sao lại nhìn chằm chằm vào cái đĩa thịt gà cười dâm đãng thế? - Giang huynh? Dương Lăng gọi to hơn. Giang Bân đang nghĩ về cái hình dáng người còn gái xinh đẹp có tên Vương Mãn Đường kia đang quằn quại rên rỉ nằm dưới thân mình, nhất thời khí thế hừng hực, thằng nhỏ phía dưới đã lâu không biết mùi thịt cũng ngẩng cả đầu lên, hát cùng một bài ca với lão đại của nó thì đột nhiên bị câu gọi của Dương Lăng làm giật cả mình, tay quờ cả vào chén rượu, đổ lênh láng ra bàn. Đột nhiên, thấy đũng quần ướt sũng...có cái gì đó sưng lên đáng kể...