Chương 455: Ly gián

Ngược về thời Minh

Nguyệt Quan 14-02-2024 22:49:50

Bầu trời như cao và trong xanh hơn, không gian bao lao, thảo nguyên mênh mông rộng lớn chạy xa tít đến tận chân trời. Trên cao những đám mây trắng bồng bềnh nhẹ trôi, trông chúng thật thuần khiết, dường như còn cách mặt đất rất gần, dường như ta chỉ cần đứng trên một sườn đất cao 200 trượng là có thể chạm tay vào những đám mây trắng tinh khiết như tuyết kia. Những bóng mây chiếu xuống thảo nguyên với độ đậm nhạt khác nhau sẽ khiến cho màu sắc của đồng cỏ biến đổi kỳ ảo, lúc đậm lúc nhạt. Từng bầy dê cừu đứng rải rác khắp thảo nguyên. Từ trước đến giờ Dương Lăng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện một lễ hội long trọng trang nghiêm như Naadam lại được tổ chức ở một thảo nguyên rộng lớn, tự do và phóng khoáng như thế này. Không có người đi chia vạch phân đường, ngăn cách các khu thi đấu, những người mục dân sống tự do thoải mái thành từng nhóm trên thảo nguyên, chỉ có các đại thân hào lãnh chúa mới được định rõ khu vực riêng biệt của bản thân, xây dựng đại trướng màu trắng, bên ngoài treo đầy những lá cờ đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng, họ ngồi trong đại trướng lồng lộng gió trời, thưởng thức sữa đậu phụ, váng sữa và rượu sữa ngựa. Đám người Dương Lăng cũng có một đại trướng riêng cho mình, để tránh sự chú ý của người khác, vì an toàn Dương Lăng cũng đã cải trang. Hắn thay một bộ trang phục của người Hán thường mặc khi ở quan ngoại, trên mép gắn thêm một chòm râu giả hình râu cá trê, khiến cho hắn trong nháy mắt trở thành một người đàn ông trung niên khoảng 500 tuổi, điềm đạm, chín chắn. Nhưng bù lại dung mạo của hắn vẫn rất anh tuấn, dường như trông hắn lúc này càng trở nên phong độ và nam tính hơn. Dương Lăng của bây giờ vừa anh tuấn thoát tục lại vừa có được sức hút của một người đàn ông trưởng thành. Thành Khởi Vận thấy vậy thì mừng rỡ không thôi. Hồng Nương Tử cũng đã dựng riêng cho mình một chiếc lều vải ở phía trước mặt của Dương Lăng. Vì an toàn, sau khi đến đây hai bên đã không có bất cứ liên lạc gì với nhau. Khoảng cách của hai bên tương đối xa nên đến cái bóng của lều vải của đối phương cũng không thể nào nhìn thấy, nhưng trong lòng Thôi Oanh Nhi biết rằng Dương Lăng chính là đang ở đó, trong lòng đột nhiên cảm thấy thoải mái và yên tâm hơn. Thực ra mấy ngày hôm nay khi không có Dương Lăng ở bên cạnh, Thôi Oanh Nhi chinh chiến chém giết, không thua kém nam nhi nhưng cũng không biết vì sao, vừa nhìn thấy hắn thì tự nhiên bản thân lại sinh ra cảm giác muốn dựa dẫm, ỷ lại vào nam nhân. Thực ra thì Thành Khởi Vận cũng không phải là không như thế, nàng rất thích dung mạo trưởng thành, chín chắn của Dương Lăng, không phải là xuất phát từ tâm lý ỷ lại từ tận đáy lòng của một nữ nhi thì là gì đây. Mỗi lần tổ chức lễ hội Naadam, tất cả mục dân trong phạm vi mấy trăm dặm xung quanh đều đến tham gia. Lần này nữ vương Đóa Nhan Tam Vệ kén chồng, thì càng thu hút được anh hào bốn phương. Bởi vì cuộc so tài của lễ hội Naadam không giới hạn dân tộc, ngay cả Kiến Châu Nữ Chân, Hải Tây Nữ Chân cũng có hảo hán song tuyệt cưỡi ngựa bắn cung cũng tới tham gia, và mong muốn tìm vận may. Người được cung kính mới đến từ phương xa – Phật sống dẫn theo những Lạt Ma đứng trên đài cao trước đại trướng của Đóa Nhan nữ vương dâng hương đốt đèn, tụng kinh niệm phật, khẩn cầu thần linh phù hộ, diệt trừ tai họa bệnh tật. Nghi lễ được thực hiện trong một thời gian dài nhưng tất cả mục dân và binh lính đều rất cung kính và tôn nghiêm, cả thảo nguyên bỗng chốc trở nên yên tĩnh lạ thường. Những lá cờ được treo trên đỉnh của đài cao bay phấp phới trong thứ gió tự do, khoáng đạt của thảo nguyên, phát tra những tiếng phần phật. Luyện Chỉ Huy cũng được vinh dự ngồi trong đại trướng của nữ vương, mặc dù chức vị của y không xứng đáng được ngồi dùng bữa với vương gia được Hoàng đế Đại Minh khâm phong, nhưng dù sao thì y cũng là đại diện cho thiên triều thượng quốc, lại là người được đại nhân Đô ty đô chỉ huy sứ Nô Nhi Can phái đến, cho nên lão và Thái Ninh Vệ A Cổ Đạt Mộc, Phúc Dư Vệ Bạch Âm đều được ngồi trên, những thứ tự tiếp theo là tướng lĩnh quan trọng của các địa phương. - A Cổ Đạt Mộc, nghe nói cháu của ngài Bố Hòa cũng đến tham gia cuộc thi này? Bạch Âm hai tay vịn vào đầu gối, cười cười và hỏi. - Đúng vậy! Ta đã được chứng kiến sự trưởng thành của Ngân Kỳ, và Ngân Kỳ không những là một cô gái tốt mà còn là nữ vương Đóa Nhan Tam Vệ của chúng tôi, chỉ có vị anh hùng tài giỏi và xuất chúng nhất của thảo nguyên chúng tôi mới xứng đôi với người. Bố Hòa là đệ nhất anh hùng về cưỡi ngựa bắn cung và đấu vật của Thái Ninh Vệ chúng tôi. Ha ha! Tô Hách Ba Lỗ chưa chức đã có thể thắng được nó! Bạch Âm bình thản cười cười đáp lại: - Anh hùng không thể là cứ dùng lời nói ma được, cái chính là phải dựa vào bản lĩnh của bản thân. Bố Hòa nếu như chiến thắng được Tô Hách Ba Lỗ, thì Bạch Âm ta sẽ là dành cho cậu ta những lời chúng phúc tốt đẹp và chân thành nhất! - Ha ha ha ha! Vậy thì, ngay bây giờ và ngay tại đây, ta phải cảm ơn ngài rồi! Mặc dù mái tóc đã hoa râm như sức khỏe của A Cổ Đạt Mộc vẫn còn rất tráng kiện, lão vuốt ve chòm râu, không hề khách khí mà nhận lấy lời chúc phúc của Bạch Âm. Còn Bạch Âm thì cứng họng, không nói được thêm câu gì chỉ biết cười lạnh, rồi quay đầu đi. Luyện Chỉ Huy ngồi ở bên cạnh, thản nhiên ngồi xem hai người kia đấu khẩu gay gắt với nhau, y quay đầu lại như kiểu không biết gì hết, vừa bưng chén trà sữa lên nhấp nháp vừa đưa mắt nhìn bốn xung quanh. Nghi thức dài dòng kia cuối cùng cũng đã kết thúc, những mục dân và binh lính các bộ tộc đứng bao vây quanh khu vực đài cao đều thành kính quỳ xuống đất và thành tâm cầu nguyện. Thủ lĩnh các bộ lạc cũng kết thúc cuộc nói chuyện, từng người từng người chắp hai tay lại, lặng yên cầu nguyện điều gì đó, có lẽ đó cũng là những lời chúc phúc và cầu nguyện. Phật sống từ trên đài cao bước xuống, Lạt Ma mặc áo cà sa đỏ thẫm giơ cao những chiếc tù và dài. Trong tiếng kèn đinh tai nhức óc, họ được Ngân Kỳ cùng các thủ lĩnh của các bộ lạc nghênh đón vào trong đại trướng, ngồi vào hàng ghế trên và tôn kính dâng lên cho y chiếc khăn Ha-da và bơ trà. Ngay sau đó, Ngân Kỳ cầm chắc lấy thanh đoản kiếm bước lên đài cao. Thanh kiếm đó chính là lễ vật trao đổi của nàng và Thôi Oanh Nhi. Thanh kiếm này rất thích hợp với nữ nhi hơn nữa lại vô cùng sắc nhọn cho nên nó đã trở thành bảo kiếm được Ngân Kỳ đeo bên người. Giọng nói của Ngân Kỳ mặc dù rấy trong trẻo nhưng trên thực tế những người có thể nghe được những lời nàng nói chỉ có những người đứng gần đài cao, nhưng những mục dân năm này cũng đến tha dự lễ hội Naadam cho nên họ nghe nhiều nên thuộc. Nhưng chuyện mà họ quan tâm nhất, chú ý nhất chính là nữ vương sẽ kén chồng ngay trong lễ hội Naadam. Hơn nữa, bây giờ chuyện này đã được Ngân Kỳ đích thân xác nhận, khiến cho tất cả mục dân đều nhanh chóng đến đây, toàn bộ sân đấu đồng thời vang lên những tiếng hoan hô. Trong những tiếng nói cười, những âm thanh trong trẻo, lễ hội Naadam bắt đầu. Môn thi đấu đầy tiên chính là đua ngựa. Người Mông Cổ là dân tộc sống trên lưng ngựa, kỹ thuật cưỡi ngựa chính là một kỹ năng sống, kỹ năng chiến đầu được họ coi trọng nhất, nó cũng giống như chuyện người Hán coi trọng kỳ thi bát cổ, tiến khoa cử. Một người đàn ông giỏi thuần phục ngựa, đưa ngựa, bắn tên, đấu vật mới chính là anh hùng của thảo nguyên. Dương Lăng cho rằng cái được gọi là đua ngựa chính là một đám người ngồi trên lưng ngựa, khi có người ra lệnh, hét lên một tiếng thì tất cả phi ngựa về một địa điểm đã được định sẵn rồi lại quay về nơi xuất phát, người đầu tiên quay về đích chính là người dành chiến thắng, nhưng thật không ngờ đua ngựa còn phân ra thành ba môn thi nhỏ: cưỡi ngựa, điên mã và khoái mã, những nhân tài có đủ tư cách của mỗi môn thi mới có thể tham gia trận đấu thứ hai. Vị phật sống và đám Lạt Ma chỉ vì các hoạt động cúng bái tế này mà vất cả cả một buổi sáng, buổi chiều chỉ có một cuộ thi cưỡi ngựa. Vốn dĩ rất hứng khởi đứng ở bên ngoài đại trướng quang sát, nhưng Dương Lăng chỉ nhìn thấy hàng nghìn người cưỡi ngựa, trên thảo nguyên rộng lớn giống như một sân vắng, bước chầm chậm về phía trước, thực sự là quá buồn chán và tẻ nhạt. Vừa hay tối qua hắn vẫn chưa ngủ đủ giấc, cuộc thi này lại không có gì nguy hiểm, hắn ngáp một ái liền quay về đại trướng và ngủ. Bên ngoài, những người mục dân tham gia thi đấu vẫn vô cùng thận trọng bước vào. Dân tộc nào cũng có, độ tuổi nào cũng có, người nào người ấy ai ai cũng đều mặc một bộ áo choàng đẹp đẽ nhất, sạch sẽ nhất, lưng thắt chiếc dây lưng sặc sỡ, đầu thì quấn khăn, cưỡi con tuấn mã được tắm rửa sạch sẽ, lông bờm được chải chuốt mượt mà. Trước khi bắt đầu cuộc thi, những chướng ngại vật nho nhỏ được chuẩn bị từ trước sẽ được đưa vào một cách linh hoạt. Không cần đăng ký. Nơi đây cũng khôn có ban giám khảođảm nhận vai trò ghi danh, chỉ cần cưỡi vững con ngựa của mình đi đến vạch xuất phát như vậy đã được coi là thí sinh tham gia rồi. Ngoài ra, cuộc thi này cũng không có trọng tài, tất cả mục dân sẽ là trọng tài. Nếu như ai đó không khống chế được con ngựa của mình, bất cẩn làm đổ lá cờ cắm trên mặt đất, hàng rào nhỏ vậy thì căn bản là không cần có người phải chỉ điểm, thí sinh sẽ phải tự rút lui ra khỏi trận đấu. Bọn họ kính sợ thực lực nhưng cũng tôn trọng thực lực, không có bất kỳ ai dám dày mặt ở lại tiếp tục thi đấu. Thành Khởi Vận nhìn thấy Dương Lăng quay về đại trướng cũng liền quay về theo. Nàng nhẹ nhàng đấm đùi cho hắn, dịu dàng ngồi nói chuyện với hắn mãi cho đến khi hắn ngủ say trên chiếc giường đệm da sói rồi mới nhẹ nhàng đắp một chiếc áo choàng lên người hắn, dặn dò người dưới lấy những chiếc bao nỉ đến bịt kín những lỗ hổng giống như cửa sổ lại, xong xuôi nàng mới quay về chiếc ô khổng lồ trước đại trướng. Thành Khởi Vận thoải mái ngồi xuống một chiếc ghế lớn, bên trên có một chiếc ô khổng lồ che nắng. Mặt của nàng vẫn vẫn được quấn một chiếc khăn lụa màu trắng như tuyết, chỉ để lộ một đôi mắt đầy mê hoặc. Đối với nàng, làn da không những phải bảo vệ khỏi ánh nắng mà còn phải được bảo vệ khỏi gió và bụi. Thành Khởi Vận rất hài lòng và chăm chút cho làn da mềm mịn của bản thân, ngay cả hai bên mông căng tròn cũng được chăm sóc cẩn thận. Nàng vẫy tay, lập tức có người mang lên một ly chè xuân Long Tỉnh, Thành Khởi Vận cười híp mắt đón lấy, từ từ nhấm nháp một ngụm, ánh mắt chăm chú nhìn đám kỵ sĩ đang từ từ bước đến trước mặt. Nàng đã nhìn thấy Thôi Oanh Nhi, hai người bên cạnh chính là Phong Lôi và Kinh Phật Nhi, dễ dàng nhận ra rằng, trước sau trái phải đều có rất nhiều người là bộ hạ của Thôi Oanh Nhi. Bởi vì những kỵ sĩ này đều vô tình cố ý bảo bệ ba người bọn họ, ngăn cản những người khác có ý đồ muốn lại gần, chen lấn xô đẩy khiến chiến mã của nàng bị phạm quy. Đại hội thi đấu lần này, nếu như chỉ vì tranh giành một phần vinh dự, thì có lẽ sẽ không có người gian dối nhưng nếu như phần thưởng của cuộc thi này là một mỹ nhân xinh như hoa đẹp như ngọc và một gia tộc có thế lực lớn mạnh và sự tôn vinh của vương gia, vậy thì không thể không có người cố ý giở mánh khóe và chút âm mưu quỷ kế. Những thiếu gia của đại gia tộc cũng dẫn theo một đám tùy tùng đến tham gia. Sứ mạng của bọn họ chính là cố gắng hết sức làm ngựa chiến của người khác tiến về phía trước và phạm quy, bao gồm cả chuyện nếu như con đường phía trước của chủ nhân có chỗ nào không dễ vượt qua thì sẽ phải chủ động tiến lên và phạm quy, đá văng lá cờ màu. Cho nên trận đấu này xem ra đúng là một trận đấu nhạt nhẽo và vô vị. Nhưng đối với những người ở đây thì nó vẫn vô cùng gay cấn và hồi hộp. Hơn một nghìn thí sinh, nhưng tính đến thời điểm hiện tại, khi cuộc đấu mới diễn ra được một nửa nhưng số người ở lại thì chưa đến một nửa ... Một người đàn ông cải trang thành một mục dân bình thường vội vàng đi đến doanh trướng, dường như y đang tìm nước uống. Đối với những người khác không có ý thù địch, theo phong tục của thảo nguyên thì người đó đều phải cố gắng uống cạn chỗ nước mà bản thân đã được chiêu đãi, ở bên cạnh sân thi đấu này cũng không có ngoại lệ. Có một người đưa cho y một túi nước làm bằng da trâu, người đó liền uống ngay, sau đó nâng tay áo lên lau miệng, liền nói khẽ với Thành Khởi Vận: - Thành chủ thành Bản Thăng Ngải Thận không có tham gia lễ hội Naadam, gã dẫn theo một đám người chia thành mấy đường đi về những nơi mà các bộ lạc canh giữ thành Đoán Nhan và nơi nơi đóng quân ở ngoài thành, nói là thu mua da lông, nhưng cũng không thấy gã làm ăn được mấy chuyến. Thành Đóa Nhan bình thường vốn dĩ là không có đề phòng cảnh giác. Lần này vì toàn bộ nhân vật quan trọng của Tam Vệ đều tập trung đông đủ ở thành Đóa Nhan, cho nên nơi đây mới thi hành canh gác đề phòng nghiêm ngặt. Hiện tại các thủ lĩnh của Tam Vệ đã đến được sân đấu trên thảo nguyên, thành Đóa Nhan liền hủy bỏ cảnh vệ, cho phép tất cả mọi người của các bộ tộc được ra vào tự do. Thành Khởi Vận nhẹ nhàng gật đầu, dường như nàng đang tán thưởng công phu trên lưng ngựa của các kỵ sĩ, làn môi dưới lớp khăn lụa sẽ cử động, thỉnh thoảng tấm khăn lụa mỏng dán chặt vào đôi môi anh đào làm lay động lòng người: - Nói với thuộc hạ của ngươi cẩn thận một chút, các đường khác không cần phải quan tâm, chỉ cần theo dõi một mình Ngải Thận thôi, có cơ hội thì hãy đem về đây cho ta. - Rõ! Nhưng xem ra thuộc hạ của gã, võ công của người nào người nấy cũng không hề tầm thường, ngoài ra nơi mà gã thường lui tới phần lớn là những chỗ tương đối đông đúc và náo nhiệt, ra tay với gã quả là một chuyện không dễ dàng. - Các ngươi hãy tự nghĩ cách đi! Ngải Thận nhất định phải trở về đây mà không bị mất một cọng lông hay sợi tóc nào, ta không quan tâm người của gã là sống hay chết. Nếu như có người khác nhìn thấy, bất luận là người của bộ tộc nào, cho dù quan binh của Đại Minh, giết! Tấm lụa trắng khẽ bay bay giống như bị chữ "giết" kia làm cho giật mình, vẻ mặt của người đàn ông cải trang thành mục dân kia cũng bị giật giật, nghiêm túc đáp lại: - Rõ! Thuộc hạ nhất định sẽ dốc toàn tâm toàn lực hoàn thành nhiệm vụ! Y đem túi nước làm bằng da trâu trả lại cho người đứng ở trong đại trướng, cúi xuống hành lễ rồi xoay người vội vàng bước ra ngoài. Thành Khởi Vận vén tấm lụa trắng lên, đưa chén trà kề sát môi rồi dừng lại. Đôi mắt đầy mê hoặc kia đột nhiên nhìn về phía chiếc lều trướng khổng lồ của nữ vương. Những thí sinh tham gia đua ngựa đang di chuyển chậm chạp về phía trước, giống như những lữ khách đơn độc bước đi. Từ những khẽ hở của thân người bọn họ, chiếc đại trướng theo quy cách của Khả Hãn chỉ có mấy chục thị vệ cầm đao, dựng thương đứng nghêm ở phía trước, nữ vương và thủ lĩnh Tâm Vệ đều không lộ diện. Khóe môi của Thành Khởi Vận khẽ cong lên tạo thành một nụ cười đầy ẩn ý: - Xem ra hôm nay không có kịch hay để xem rồi. Tất cả đám ve sầu kia đều cố gắng trở thành bọ ngựa, nhưng cuộc thi này kéo chỉ kéo dài trong vòng 10 ngày, chắc chắn là sẽ có người không khống chế nổi bản thân mà manh động ra tay trước. Nàng bỗng nhiên lấy tay che miệng, ngáp vài cái. Đêm hôm qua nàng còn ngủ muộn hơn cả đại nhân, nàng cũng cảm thấy mệt mỏi một chút, nhưng vừa nghĩ đến chuyện sắp xảy ra thì nàng lại vô cùng hào hứng, hồ hởi. Có những lúc làm một số chuyện xấu thực ra cũng rất rất thú vị và sảng khoái, nhưng đáng tiếc rằng, dưới sự trói buộc của Dương Lăng, nàng đã cải tà quy chính cũng lâu rồi. Lần này khó mà ... Đương nhiên phải chơi một ván thật lớn chứ! Hai con ngươi của nàng sáng lên. Một kỵ sĩ trẻ tuổi không may cúi đầu xuống và nhìn thấy, dưới tán ô, Thành Khởi Vận đang lười biếng dựa mình vào chiếc ghế, bộ áo nữ bào Mông Cổ dài và rộng cũng không thể nào làm mất đi dáng người yêu kiều của nàng, cỏn cả đôi mắt sáng ngời như sao trên trời. Một giây thất thần con ngựa của gã đã dẫm đổ một lá cờ nhỏ cắm trước mặt. Người kỵ sĩ này liền lấy tay đấm mạnh vào đầu, phẫn nộ thúc ngựa phi sang một bên. Thàn Khởi Vận bật cười, hai mắt cong lên tạo thành mai mảnh trăng khuyết. Trong nháy mắt người kỵ sĩ bị ánh mắt kia mê hoặc làm cho "bất hạnh" quay đầu lại, y đã mất tư cách tham gia thi đấu. Chỉnh người đúng là một chuyện vô cùng thú vị. Thành Khởi Vận giống như một đứa trử nghịch ngợm, lại hướng đôi mắt sắc bén, đầy ma lực kia nhìn về kỵ sĩ tiếp theo. Ngày thứ ba là ngày đua ngựa, trải qua các trận đấu cưỡi ngựa và điên mã, những tuyển thủ được tham dự chỉ còn lại hơn hai trăm người, nhưng trong đó, số người thực sự tham gia thi đấu chỉ có khoảng hai mươi người, số người còn lại chỉ là những kẻ hỗ trợ của bọn họ. Trong trận đấu, những người tôi tớ này cố gắng tạo điều kiện có lợi cho chủ nhân của mình, để thuận lợi dành được ngôi vị quán quân. Nhóm của Thôi Oanh Nhi chỉ có ba người là nàng, Phong Lôi và Kinh Phật Nhi được lọt vào ngày thi đấu cuối cùng của cuộc thi mã thuật. Ở hai cuộc thi trước, họ đều thể hiện được kỹ thuật cưỡi ngựa cô cùng cao siêu, và đã thu hút được sự chú ý của tất cả các bộ lạc, nhất là khi ba người họ công khai thân phận của bản thân: đến từ bộ lã Tháp Tạp lưu vực sông Oát Nan, thì càng thu hút được sự chú ý của nhiều người. Bộ lạc Tháp Tạp vốn dĩ là do Bá Nhan quản lý, sau đó bộc tộc Ngõa Lạt cướp lấy sông Oát Nan thì họ liền trở thành người của Ngõa Lạt. Hiện tại nơi đó trở thành hiên hạ của Bạch Y Quân, bộ tộc Tháp Tạp đã mất liên lạc với các bộ lạc khác từ rất lâu rồi, và không còn ai biết được tung tích của bọn họ. Dựa theo lời của ba người này, từ sau khi Bạch Y Quân xâm chiến lưu vực sông Oát Na, cả bộ lạc liền di chuyển về phía đông, trốn tới tận vùng Đại Hưng An Lĩnh. Hiện tại, bọn họ là một bộ lạc tự do, sớm đã không lệ thuộc vào Bá Nhan hay là Diệc Bất Lạt, đến đây tham gia đại hội thi đấu với mong muốn được vào Đoán Nhan Tam Vệ. Các bộ lạc trên thảo nguyên không ngừng thay đổi lãnh chúa, họ lựa chọn những người hùng mạnh nhất để đi theo, cho nên chuyện này không phải là một chuyện mất mặt, cũng không bao giờ bị người khắc để ý, dèm pha. Bọn họ mong muốn được gia nhập vào Đóa Nhan Tam Vệ, chính là một sự khẳng định Bá Nhan Tam Vệ là một bộ lạc hùng cường đủ sức mạnh chống lại những cường nhân như Bá Nhan, Hỏa Si,...Đây chính là một chuyện tốt khiến cho tất cả mục dân của Đóa Nhan Tam Vệ cảm thấy tự hào. Sau khi bọn họ thể hiện thân thủ khỏe mạnh, cường tráng của mình, đương nhiên là không tránh khởi sự nghi kỵ của các bộ lạc khác, khi tất cả đều muốn giành được chiến thắng, và được liên hôn cùng với nữ vương. Thôi Oanh Nhi chải vuốt bờm ngựa cho con chiến mã, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc thi sắp tới. Cuộc tranh tài này, trong ba người là lớn nhất, nàng là người kỳ vọng nhiều nhất. Bởi vì thể trọng của nàng là nhẹ nhất, còn đường đua dài tới 70 dặm, thì chuyện tiết kiệm sức ngựa là quan trọng nhất. Ngựa phải là ngựa tốt, những nam nhân của các bộ lạc được lọt vào trận chung kết, chiến mã của mỗi người đều là những con ngựa có thể lực cường tráng, lực lưỡng, cước trình xuất sắc. Ngựa của bọn họ đều là những con ngựa tốt nhất, được tuyển chọn kỹ càng, cẩn thận từ hàng vạn con. Hơn nữa, hai mươi ngày trước, những con ngựa này đã bắt đầu một khóa huấn luyện đặc biệt: treo ngựa- mỗi ngày dùng cọc buộc ngựa kéo và treo con ngựa lên cao. Hằng ngày đều phải cắt giảm lượng cỏ khô và thời gian uống nước, sau đó thì dùng cọc treo ngựa treo con ngựa lên cao khiến cho ngựa bị giảm cân, thể lực nhẹ đi. Một vị phu nhân quý tộc của Phúc Dư Vệ mặc bộ quần áo đẹp đẽ nhất và đeo những trang sức lộng lẫy nhất, xách theo thùng sữa dùng để hiến tế, bước tới điểm xuất phát. Sau màn chào hỏi, những kỵ sĩ đang cười tươi, nói chuyện thoải mái lập tức trở nên nghiêm túc, nắm chắc dây cương. Ngựa chưa được chuẩn bị yên, kỵ sĩ không đi giày đeo tất. Tất cả bọn họ đều mặc những bộ áo choàng sặc sỡ, đầu quấn khăn lụa màu đỏ tươi. Thảo nguyên vô cùng yên tĩnh, tất cả ánh mắt đều nhìn hướng về vị phu nhân quý tộc đó. Vị phu nhân này khoảng hơn 50 tuổi, bà bước đến trước mặt các kỵ sĩ, lấy một ít sữa ngựa tinh khiết vẩy vẩy ra xung quanh để thể hiện sự tôn kính với trời đất. Đang ngửa mặt lên trời cầu nguyện, bỗng nhiên vị phu nhân này lên tiếng, giọng nói cao vút và vang vọng. "Ầm" một tiếng, hơn một trăm kỵ sĩ như phụng mệnh tướng quân, lập tức phi người lên lưng ngựa, ngồi vững trên lưng ngựa trơn trượt, giơ cao cây roi ngựa phi thẳng về phía trước, ai cũng muốn lên phía trước, cùng một lúc tất cả đều lao như điên về phía trước, trông họ xuất phát giống như những mũi tên được bắn cùng nhau. Bầy ngựa giống như thủy triều, xô về phía thảo nguyên rộng lớn nơi có những cánh đồng cỏ bát ngát đến tận chân trời. Ô ô ô tiếng sừng trâu ngân dài. Mục dân của các bộ lạc cùng nhau hò hét ra trợ uy, âm thanh vang vọng, chấn động cả một vùng quê. Danh ca xuất sắc nhất của Đóa Nhan Vệ hát vang bài ca ca ngợi bằng tiếng Mông Cổ: "Ngựa phi như bay qua bên đường, mọi người không kịp nhìn, phi như bay nhưng bốn vó không dính một hạt bụi, giống như chú dê vàng nhảy múa, lại giống cho chim bay ra khỏi lồng. Lông bờm mềm mại, bóng mượi như đồng cỏ xanh mướt, mềm mại, xoay tròn theo gió, màu lông thì giống như ánh nắng chiếu rọi trên mặt nước ..." Bài hát vẫn chưa được hát xong thì hơn một trăm kỵ sĩ đã biến mất ở cuối thảo nguyên. Dương Lăng lo lắng đứng ở bên cạnh lều vải, đưa mắt nhìn về phía xa. Bầu trời xanh thăm thẳm một màu, mênh mông bát ngát. Những cơn gió nhẹ thoảng qua như một bàn tay của ai đó đang nhẹ nhàng lướt quan thảo nguyên rộng lớn, trong tiếng gió xào xạc, màu xanh lá cây tít tắp, căn bản là không nhìn thấy được bóng người. Vang vọng bên tai chỉ còn là tiếng hát du dương, réo tắt vẫn chưa hết, khiến mọi người nhìn thấy bầu trời rộng lớn, thảo nguyên bát ngát, nghe thấy tiếng hát ca vút không kìm lòng nổi tự nhiên hướng ánh mắt về những nơi mà mắt thường nhìn không thấy... Người trên thảo nguyên có bản tính xâm lược. Có lẽ tính cách này cũng có liên quan đến hoàn cảnh sống của họ. Thảo nguyên rộng lớn, bao la đã giúp cho phần lớn người thảo nguyên có được một trí tuệ hơn người và tinh thần dũng cảm, khiến họ ấp ủ một khát vọng được khám phá vùng đất cuối cùng của thảo nguyên. Khát vọng được khám phá thôi thúc họ không ngừng di chuyển về những nơi xa hơn, mới mẻ hơn. Nếu như đó là hành động của một người, một cá nhân thì hành động này được coi là thám hiểm, nếu như nó là hành động của một bộ lạc lớn mạnh thì đó chính là xâm lược! Khi mà đám người Hồng Nương Tử, Bố Hòa, Tô Hách Ba Lỗ giống như tên được phóng ra khỏi cung, rong ruổi trên thảo nguyên bao la, thì ở một nơi rất xa, ở Hòa Lâm – nơi tiếp giáp của ba thế lực của Thát Đát, Ngõa Lạt và Hồng Nương Tử, đang có một bộ tộc Ngõa Lạt đang nhàn nhã chăn thả trên thảo nguyên. Sông Ngạc Nhĩ Hồn bắt nguồn từ chân núi phía nam của dãy Hàng Ái, sau đó chảy về hướng bắc, hòa dòng chảy với sông Sắc Lăng Cách, cuối cùng là chảy vào hồ Baikal, cho nên nơi đây có đồng cỏ tươi tốt, nguồn nước dồi dào. Mùa này lại đúng là mùa mưa, nước sông dồi dào, thêm vào đó, mấy ngày trước vừa mưa một trận rất to, cho nên nước lũ dâng lên cao và phá hủy một cây cầu sông. Bộ lạc này vốn dĩ là sống ở phía tây của con sông đành phải tạm thời ở lại phái đông của con sông. Nhưng bọn họ vốn dĩ là lưu lạc khắp nơi, mặc dù cây cầu bị phá hủy, bọn họ cũng có thể đi về phía nam, men theo dọc bờ sông quay về bộ lạc của họ, sở dĩ họ không đi như vậy là vì phương nam tiếp cận với phạm vi thế lực của người Thát Đát, với tư cách là một bộ tộc của người Ngõa Lạt, hiện tại cả hai bên đều trong tình thế nỏ đã giương dây, bọn họ không muốn mạo hiểm, cho nên bọn họ đành phải đóng trại ngay bên cạnh bờ sông. Rất nhanh sau đó, cây cầu đã được sửa lại, cầu ở nơi đây năm nào cũng phải sửa chữa, đều là những cây cầu vô cùng đơn giản. Một khi bị nước lũ phá hỏng, đợi sang năm rồi mới sửa lại cũng chẳng khó khăn gì. Thời tiết lúc này cũng rất tốt, dưới ánh nắng ấm áp, từng bây cừu giống như những đám mây nhỏ nhắn, xinh xắn chạy tung tăng trên những cánh đồng cỏ xanh mơn mởn. Những đám mây trắng trên trời như cũng muốn hòa mình vào khung cảnh nên thơ đó, chầm chậm nhẹ trôi trên bầu trời xanh thăm thẳm, và trong veo như mặt hồ mùa thu. A Mộc Cổ Lãng sai một vài người già sức yếu đi chăn cừu ở chân núi, còn ông ta thì dẫn theo mười người trong tộc leo lên núi đốn cây, chuẩn bị dựng lại cầu. Lưỡi rìu sắc bén, những tiếng "phập phập" vang lên liên tục, vụn gỗ trắng như tuyết bay tứ tung, ngay đầu mũi là thoang thoảng mùi gỗ tươi mát dịu. Nhát rìu cuối cùng, một cây tùng xanh cao và thẳng lắc lư vài cái rồi dưới sức đẩy của mấy mục dân, cây gỗ từ từ đổ về phía chân núi. Làn nước trong xanh dưới sông phản chiếu nhìn ảnh cây tùng lắc lư, khi cái bóng biến mất khỏi mặt nước, âm thanh cây bị đổ vang lên, thân cây đã rơi xuống đất, rồi nó lại nẩy mạnh lên một cái. A Mộc Cổ Lãng toét miệng cười rộng, dùng cây rùi ước chừng, chuẩn bị kêu người tới chặt tỉa rồi lôi về phía bờ sông. Đúng lúc này, ông ta mơ hồ nghe thấy một vài tiếng động, A Mộc Cổ Lãng lập tức ra hiệu cho đám mục dân không được nói cười nữa, nheo mắt nhìn về phía xa. Con sông này rất uốn lượn, dọc theo bờ sông không có những thung lũng thảo nguyên, cũng có những ngọn nũi nhấp nhô nhưng không cao, nhưng ở nơi đây lại hình thành nên một kiểu địa hình nhấp nhô, không có cách nào để có cái nhìn bao quát về phía xa. Nhưng đợi được một lúc thì ông ta nhìn thấy từ phía miệng núi bay qua một đám mây trắng, chiến mã phi nhanh, áo choàng phấp phới, cả đội quân tinh nhuệ giống như những mũi đao sắc bén, mở những bụi cao xanh lục, hung hăng lao về phía mục dân và bầy cừu. - Trời ơi! Là Bạch Y Quân! Bọn chúng dám xông đến đây! A Mộc Cổ Lãng kinh sợ hét lên, giơ cao cây rìu trong tay, sợ hãi hét lên: - Nhanh! Bạch Y Quân đến rồi, xuống núi, mau đi cứu người trong bộ tộc của chúng ta! Sau những giây phút bị kinh ngạc, những mục dân đã phản ứng lại, nhanh chóng rút đao và thương, kêu gào và xông thẳng xuống núi. Bầy cừu bị hoảng sợ chạy toán loạn giống như những đám mây trắng bị gió thổi đi khắp nơi. Những mục dân chính là những người lính trời sinh, họ đã cầm đao và giương thương sẵn sàng nghênh đón Bạch Y Quân đang xông tới đây. Những con cừu kia chính là lương thực mùa đông năm nay của họ, là toàn bộ tài sản của họ, nếu như chúng bị cướp đi vậy thì kết cục cuối cùng của họ vẫn sẽ là thảm cảnh chết đói chết lạnh hoặc là đời đời kiếp kiếp phải làm nô lệ, cho nên đây chính là cuộc chiến sinh tồn của họ. Nhưng mà, mặc dù họ đã có sự chuẩn bị từ trước thì cũng không thể chống lại một đội quan hùng mạnh và tàn ác như Bạch Y Quân, chứ đừng nói là nhất thời ứng chiến, bởi binh lính quá ít. Chiến mã của Bạch Y Quân không dừng vó, một khắc cũng không do dự, chúng giống như một con mãnh hổ xông vào bầy dê, điên cuồng chém giết mục dân. Con chó chăn cừu sủa ầm ĩ, dưới sự điều khiển của chủ nhân, nó hướng về những con quái vật to lớn ngồi trên lưng ngựa sủa inh ỏi. Số lượng khoái mã xông về phía trước quá đông, một thanh trường thương hướng về phía con chó, "phập" một tiếng, không chút do dự thanh trường thương đã đâm xuyên qua bụng con chó, sau đó kéo dài cây thương trên mặt đất, móc thương lôi con chó đi khoảng mấy trượng. Khi một mục dân giơ thanh loan đao lên, thúc ngựa điên cuồng đến, thì cây thương đó đã được giương lên, mang theo những giọt máu tươi, và người này cũng giống như con chó vừa rồi, bị kéo lê trên mặt đất. Bạch Y mã tặc danh chấn quan ngoại quả là danh bất hư truyền. Tất cả những nơi mà chúng đi qua thì người ngã ngựa đổ, không ngớt tiếng người kêu la, tru tréo thảm thiết rồi ngã đè lên ngựa. Bọn mã tặc đối phó với đám mục dân bị phân tán này thì quá dễ dàng, thế tấn công như nước chảy mây trôi, không chút khó khăn gì. Một đứa bé hai mắt đỏ lên giơ cao cây thương có dây tua, phải ba năm nữa, mà cũng có thể là chỉ hai năm thôi là thằng bé có thể trở thành một người lính nhưng hiện tại hai cánh tay của nó vẫn chưa đủ cứng chắc, lực vẫn còn yếu, còn tên thủ lĩnh Bạch Y Quân, mặt mày dữ tợn râu ria xồm xoàm, mắt báo trợn ngược giơ cây thương lên đạp mạnh vào cây trường mâu trong tay nó và hất tung ra xa, thuận thế đâm mạnh cây thương xuyên qua vai nó khiến máu bắn tung tóe. Thằng bé ngã luôn xuống đất, đứa trẻ Ngõa Lạt đó chết mà không kịp kêu lên một tiếng, cả người bị chém thành hai mảnh rồi rơi xuống đất, máu đỏ phun vào không trung. A Mộc Cổ Lãng phẫn nộ chửi mắng, hai mắt đỏ ngầu lên. Đứa bé đó chính là cháu của ông ta, là nam đinh duy nhất trong gia tộc của ông ta. Ông ta vội vàng bước nanh, khoảng cách vẫn còn rất xa nhưng ông ta đã ném bay cây rìu trong tay. Cây rìu bay trong không trung vẽ lên một đường con mang theo những tiếng vèo vèo hung hăng bổ trúng vào đầu một binh lính Bạch Y Quân. Thi thể rơi ầm xuống đất, A Mộc Cổ Lang chạy về trước vài bước định nhặt thanh mã đao của ông, cướp lại con ngựa của ông nhưng một tên lính Bạch Y Quân liền xông tới, khuôn mặt bị che kín chỉ để lộ ra đôi mắt đằng đằng sát khí, một thanh trường thương sắc nhọn giống như một con rắn độc đang thè lưỡi, đâm mạnh vào bụng của A Mộc Cổ Lãng, ông ta kêu lên một tiếng thảm thiết rồi ngã xuống đất. Mấy mục dân theo sau ông vừa mới từ trên núi xuống liền xông lên cứu viện. Đám kỵ sĩ trên ngựa cầm chắc cương thúc ngựa xông lên, trường thương vừa phóng ra thì ngực của hai người mục dân liền xuất hiện hai lỗ thủng, máu tươi bắn tung tóe, hai người họ lảo đảo vài cái rồi ngã xuống, đè lên người của A Mộc Cổ Lãng. Thủ lĩnh Bạch Y Quân che mặt kia cúi người xuống, rồi nhấc chiến sĩ Bạch Y Quân sắp bị đánh chết lên lưng ngựa, quất ngựa rời đi. Một mục dân người Ngõa Lạt ôm ngực thảm thiết gào lên leo lên lưng ngựa, máu chảy ròng ròng qua những ngón tay. Bạch Y Quân tấn công quá hoàn mỹ, đám mục dân ở dưới núi cơ bản đã bị giải quyết xong, chiến mã của bọn chúng vẽ thành một đường cong hoàn mỹ rồi quay trở lại. Nhìn thấy thảm cảnh đang xảy ra trước mắt, những người mục dân liền đứt ruột từ bỏ tài sản duy nhất của họ - đàn cừu, hai mắt rưng rưng chạy lên trên núi. Bạch Y Quân ở phía sau không hề thúc ngựa đuổi theo lên núi, mà chuyển sang bắn tên, coi những mục dân kia là những mục tiêu sống, tiễn pháp chuẩn xác, hạ gục từng người từng người một cho đến khi số người chạy trốn được vào trong rừng sâu chưa đến mười người. Bạch Y Quân bắt đầu hạ lệnh thu hồi đội ngũ, thương thế của bọn chúng chẳng đáng nói. Dưới sự chứng kiến của của mục dân Ngõa Lạt, bọn chúng nghiêm túc điều chỉnh lại đội hình sau đó lùa đàn dê cừu hướng về phía miệng núi. Những người mục dân nấp trong rừng tùng chỉ biết cắn răng nghiến lợi, dùng hai con mắt nảy lửa nhìn đám cường đạo đáng chết, chúng còn độc ác hơn cả họ. Đi được mười mấy dặm, một người kéo tấm khăn che mặt xuống. Đó là một người Hán, trên mặt gã còn vương một nụ cười nhạt và nói: - Tháp Lạp đại nhân, người của ngài quá dũng mãnh, người của bộ tộc Ngõa Lạt quả thực là không đỡ được một đòn! - Ha ha Người đàn ông mắt báo kia cười lớn, cũng kéo chiếc khăn che mặt xuống. Y chính là một thiên phu trường thuộc hạ của Bá Nhan Mãnh Khả. Tháp Lạp cười nói: - Cũng là nhờ vào ngươi cả! Nếu như không phải mấy người đã cho tôi những thông tin này, chúng tôi còn không biết nơi đây còn có một bộ tộc Ngõa Lạt bị nước sông ngăn cách, không hể quay về doanh địa. - Đúng vậy, đúng vậy, Bản Thăng của chúng tôi may mà có được sự bảo vệ, che chở của những vị anh hùng dũng cảm của Khả Hãn giống như ngài đây, về lý chúng tôi nên cống hiến sức lực vì Khả Hãn. Nhưng ... Không biết đám dê cừu này, chúng tôi sẽ được chia bao nhiêu đây? Tháp Lạp cười đáp lại: - Chúng ta vẫn nên nhanh chóng đi đến thượng du sông lớn, xem xem còn phát hiện được bộ tộc Ngõa Lạt nào nữa không. Đám dê cừu này không thể nào đem về được, nếu như ngài muốn, tôi có thể cho ngài tất cả. Người nọ mừng rỡ, nhưng ngay lập tức trên mặt hiện lên sự khó khăn: - Đa tạ sự khẳng khái của Tháp Lạp đại nhân, nhưng ... Chúng tôi đến đây cũng chỉ có hơn mười người, phải chăm sóc một đàn dê cừu lớn như vậy, khi di chuyển đúng là có nhiều bất tiện. Y nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi khuôn mặt dịu đi, cười nói: - Không sao, nước sông đột nhiên dâng cao, người ở bên đó không thể nào nhanh như vậy mà qua đây tìm người trong bộ lạc của chúng. Tướng quân Tháp Lạp nếu như đã muốn đi ngược lên thượng nguồn, đi tìm đám người Ngõa Lạt đáng chết, vậy thì càng không có ai đuổi về phía này nữa. Cảm ơn Tháp Lạp đại nhân, chủ thành của chúng tôi nhất định sẽ cảm thấy mừng rỡ vì sự khẳng khái của ngài. - Đại Lương Ca, tướng quân Tháp Lạp muốn tặng hết số dê cừu này cho chúng ta hay sao? Một người đứng bên cạnh y kéo tấm khăn che mặt xuống, vui mừng quay sang hỏi y. - Đúng vậy, để ý đến bầy dê cừu, không được làm lỡ hành trình của Tháp Lạp đại nhân! Đại Lương Ca hạ lệnh xong, lại quay sang cười nói với Tháp Lạp: - Vậy thì ... Chúng tôi quay về đây. Sau khi Tháp Lạp tướng quân chiến thắng trở về, nhất định phải đến hành Bản Thăng của chúng tôi làm khách đó, chủ thành của chúng tôi vừa mới kiếm được vài cô em xinh tươi, có cả mỹ nhân của Tây Vực, cô nương của Giang Nam, còn có cả nữ nhân Đông Doanh dịu dàng, biết cách chăm sóc... Tháp Lạp cười cười: - Ừ! Ta nhất định sẽ đến đó tận hưởng những cảm giác mới mẻ đỏ! Mọi người cũng nên lên đường đi thôi! - Được! Được! Đa tạ Tháp Lạp đại nhân! Các huynh đệ, lùa đàn dê cừu, chúng ta ... Phâp! Một lưỡi đao sắc nhọn đâm mạn vào cơ thể, Đại Lương Ca kinh ngạc quay đầu lại nhìn Tháp Lạp nhưng Tháp Lạp lại không để ý thản nhiên rút mã đao máu chảy đầm đìa ra khỏi người y rồi cười cười với y, nụ cười thân thiết như đang cười với người huynh đệ của mình, nhưng lại lạnh lẽo đầy sát ý: - Giết! Đầu của Đại Lương Ca cùng với máu me be bét bay vào không trung. Người Thát Đát đột nhiên động thủ, dường như bọn họ sớm đã nhận được mệnh lệnh, mấy tên người Hán Bản Thăng ở bên cạnh chưa kịp chuẩn bị, gần như là không kịp phản kháng lại, sau đó thì từng người từng người ngã xuống đất. - Mau! Chôn sống bọn chúng, chôn nông một chút, để chó săn của người Ngõa Lạt ngửi thấy mùi của chúng! Tháp Lạp cười lạnh, bí mật ra lệnh: - Nhân chứng, vật chứng đều có đủ, khi người Ngõa Lạt phát hiện ra những người Hán mặc áo bào trắng, chúng ta sẽ có thể uống rượu sữa, thoải mái thưởng thức vở kịch mang tên "lưỡng hổ tương tranh", mà bọn chúng chuẩn bị và diễn cho chúng ta xem, ha ha!