Chương 302: Chiến trường vô phụ tử, binh bất luận hùng thư.
Ngược về thời Minh
Nguyệt Quan14-02-2024 22:49:28
Dương Lăng bước lên đài điểm tướng. Hai hàng thân binh mang đao xếp thành một hàng ở trước đài, đối mặt với tướng sĩ các bộ, đao sáng vác trên vai, mùi đao chĩa lên, dường như lúc nào cũng có thể bổ tới, phối hợp với hình thể dũng mãnh, vẻ mặt nghiêm nghị khiến người ta nhìn thấy là sợ.
Lý Sâm đứng trước đài tiến hành động viên trước chiến đấu. Dù y không đọc sách nhiều lắm, nhưng bài tuyên thệ này là do phụ tá viết trước đó, giọng văn sắc sảo, từ ngữ khảng khái, quan viên văn võ nghe thấy đều sục sôi nhiệt huyết.
Đại khái nội dung không nằm ngoài việc trước tiên là khen ngợi quân Tứ Xuyên thiện chiến, những người có mặt đều là tinh anh trong quân, tiếp theo là ưu thế về quân sự và sự tin tưởng tất thắng. Cuối cùng huy động mọi người hô to khẩu hiệu "không đánh thắng giặc, không dám thân bại trở về", buổi diễn thuyết đến đây kết thúc mỹ mãn.
Trên đài, gió thổi áo choàng của Dương Lăng bay phần phật. Lý Sâm vừa dứt lời, hắn cởi áo choàng ra đưa cho giáo úy bên cạnh, sau đó nhảy tới trước một bước. Lý Sâm lùi về sau nhường chỗ, ánh mắt toàn thể quan binh đều đồng loạt hướng về phía Dương Lăng.
Dương Lăng lấy hơi, cất cao giọng:
- Quốc có quốc pháp, quân có quân quy!
Giọng của hắn tuy lớn, nhưng chỉ nghe rõ trong phạm vi hơn mười trượng, nhưng các bộ trong quân đều có lính truyền lệnh, có thể truyền đạt lời của hắn. Dương Lăng ngập ngừng một chút mới tiếp lời:
- Lần xuất chinh này, bản soái truyền lệnh ba quân bảy lệnh cấm sau đây, không ai được phạm, kẻ nào vi phạm chém không tha.
- Một, ai đầu hàng kẻ thù, trảm!
- Hai, ai chạy trốn theo địch, trảm!
- Ba, ai nhận hối lộ của địch, trảm!
- Bốn, ai tiết lộ quân cơ, trảm!
- Năm, ai lâm trận bỏ chạy, trảm!
- Sáu, ai không nghe hiệu lệnh, trảm!
- Bảy, ai sợ địch chạy trốn, trảm!
Bảy điều lệnh tất sát, mỗi khi nói một câu Dương Lăng đều tạm dừng, để lính truyền lệnh lần lượt truyền xuống. Quân ngũ vốn đang hô khẩu hiệu như hồ nước lặng cũng dần dần gợn sóng.
Người đang nói là ai chứ? Chính là thiên sát tinh Dương chém đầu, ra lệnh một tiếng chém hơn một ngàn đầu người, trong đó còn có quan lớn triều đình, hắn nói giết người thì đó là tuyệt đối nghiêm túc. Hai trăm thanh đao sáng loáng phía trước càng tăng thêm sát khí cho lời nói của Dương Lăng, bất kể là tướng tá quân binh nghe xong bảy điều lệnh tất sát này, trong lòng đều nghiêm nghị.
Cuối cùng, Dương Lăng cao giọng:
- Chư quân tướng sĩ anh dũng giết địch, ai không vi phạm bảy điều lệnh cấm này thì không cần câu nệ. Bản quan cầu chúc toàn thể tướng sĩ thắng từ trận đầu, mã đáo thành công! Lúc chiến thắng trở về, bản quan đãi tiệc bày rượu, tẩy trần mừng công cho toàn thể tướng sĩ!
Ai không vi phạm bảy điều lệnh cấm thì không cần câu nệ!
Những binh lính dày dạn này sao không hiểu lời của Dương Lăng cho được. Mọi người đều bị dọa đến không dám thở mạnh, ai nấy đều xem quân kỷ như hổ, lúc này trong lòng lĩnh ngộ, nhất thời ai ai cùng biến thành lão hổ.
Dương Lăng quét mắt một lượt, nghiêm nghị hô:
- Xuất phát!
Từng đội binh lính bắt đầu xuất phát dưới sự chỉ dẫn của cờ dẫn đầu, rời khỏi võ đài đi đến chiến trường. Tham tướng Lý Trạch dẫn quân tiến công về Nhung huyện, tham tướng Lâm Anh Viễn dẫn quân tiến công từ Mang Khẩu. Du Kích tướng quân Thôi Quý dẫn quân tiến công từ Lý Tử Quan, Chỉ Huy Sứ Tiêu Hoành dẫn quân tiến công từ phố Độ Thuyền, Thủ bị Cận Quốc Anh tiến công từ Kim Nga Trì...
Chiến hỏa đồng thời bùng phái ở các huyện Tự Châu, đội quân của Lý Sâm ở giữa phối hợp tác chiến, từng bước tiến về phía trước theo các đội tiến công. Đối mặt với ưu thế binh lực, trang bị và thế công hùng mạnh của quân Minh, người Đô Chưởng Man ở trên cao ỷ vào thế hiểm, dùng nó thô sơ ngoan cố chống trả.
Nhưng sức mạnh hai bên lại kém nhau quá xa, quân Minh lại có thái độ khác thường, ý chí chiến đấu cực kỳ cao, dũng mãnh vô cùng, hơn nữa còn hứng thú với công thành khiêu chiến. Người Đô Chưởng Man rốt cuộc cũng nếm được lợi hại của quan binh triều đình, bị trùng vây chém giết, chúng chống cự vô ích, đành phải từ bỏ các sơn trại trốn vào rừng sâu núi thẳm hiểm yếu hơn, khó tiến công hơn.
Quân Minh đuổi cùng giết tận, theo sát không tha tựa như chim ưng thấy thỏ. Khác với trước kia, quân Minh vốn không rành đường đi lối rẽ trong núi, mặc dù đại quân uốn lượn như rắn, trước sau hô ứng, song họ vẫn bị người Đô Chưởng Man dẫn vào lối cụt đường chết, loay hoay mãi trong núi cả nửa buổi vẫn chưa thoát ra được. Thừa lúc này, người Đô Chưởng Man đã sớm mất dạng, chơi trò trốn tìm với họ trong núi. Thậm chí chúng còn xuất quỷ nhập thần vòng ra sau đường lui của bọn họ, hoặc là xuất hiện ở sơn trại mà bọn họ đã công phá trước đó.
Nhưng còn lần này, quân Minh rất khó bị chúng dẫn tới lối cụt đường chết, cơ hội trúng phục kích cũng giảm đi nhiều. Đường dây tin tức mà người Đô Chưởng Man có được đã sớm bị phá hỏng, chúng không biết triều đình tổ chức cho dân địa phương cùng nhau vây quét. Người Man thờ phụng quỷ thần liền nghi thần nghi quỷ cho rằng chủ soái Dương Lăng của quân Minh có thần thông gì đó.
Trong đám sơn tặc đầu nhập bọn chúng có người từng nghe nói những truyền thuyết thần kỳ về Dương Lăng như: Lúc trước hắn hô mưa gọi gió tiêu diệt giặc Oa ở Tiền Đường, gọi gió đông trừ gian hoạn ở Long sơn, sau khi xác minh thì người Man càng kính sợ. Đánh vào tâm lý là đáng sợ nhất, do đó tình hình phản kháng ở nhiều nơi liền giảm đi không ít, người ở những nơi thường bị công kích liền bỏ trại trốn vào núi sâu.
Trong vòng năm ngày ngắn ngủi, tin chiến thắng liên tiếp báo về từ mọi nơi. Quân Minh các huyện không ngừng giành chiến thắng, đánh hạ các sơn trại Long Bối, Báo Vĩ, Đồng Cổ Trì và hơn một trăm sơn trại khác, trảm đầu hơn hai ngàn bốn trăm người, bắt giữ hơn bốn trăm người, chiếm giữ hơn bảy trăm kho gạo, ba mươi trống đồng cùng một số lượng lớn trâu ngựa heo dê.
Trước kia quân Minh công chiếm sơn trại, do lúc tiến công lên núi tử thương nghiêm trọng, vì muốn hả giận nên đốt trụi sơn trại, những nhà tranh hàng rào đó đều làm từ gỗ, dựng lên dễ dàng, đốt lại càng dễ. Nhưng lúc này quân Minh lại có thái độ khác thường, không hề phóng hỏa cho bõ tức, ngược lại còn xây dựng công sự ở chỗ hiểm yếu của sơn trại đã chiếm lĩnh, dựng lên tường đá, thận trọng bức sát gần hơn.
Hơn nữa liền là nơi dựa vào thế hiểm phản kháng bị đánh chiếm, họ liền để lại binh mã, an bài quan lại, đồng thời di dời người dân các tộc tiến hành đồn điền, phân phát toàn bộ đất vô chủ của những ai vào núi tạo phản cho mọi người.
Người ta thường nói chiến trường không phụ tử, đánh trận không nam nữ, nếu đến lúc đánh nhau mà còn mềm lòng thì chắc chắn là tự chui đầu vào rọ. Đối với người tổ chức phá hoại, di dân, chia đất, xây dựng thôn xóm mới lúc này, sớm đã bị Yên Cao Tài kể lại tường tận cho các quan lại mới nhậm chức kiên quyết trấn áp, không chút nương tay, độc thủ phật tâm, dùng sự hỗn loạn nhất thời đổi lấy ổn định lâu dài. Quả nhiên việc này đã đả kích nặng nề vào những kẻ ngầm phá hoại ôm lòng ảo tưởng, muốn giở lại trò cũ, tỏ vẻ yếu đuối, dùng thủ đoạn cứng rắn nhanh chóng thành lập nên trật tự mới.
Những lưu dân không nhà và tá điền không đất, những nông dân bần cùng vốn làm công lâu năm cho địa chủ cường hào vừa nhìn thấy quan phủ dán thông báo chiêu nạp, họ liền kích động chạy tới. Mỗi nhà được mười mấy mẫu ruộng tốt, trong một đêm biến thành giai cấp có tiền, ai nấy đều vui sướng, chẳng những lưu lại ổn định tại chỗ, còn chủ động thành lập dân phòng, trợ giúp quan quân lùng bắt nghịch tặc, ổn định địa phương.
Đồng thời, Dương Lăng không đem Lang Quân mà sáu tộc phái tới đưa ra chiến trường, chỉ để họ giúp quan binh tuần tra, xử trí những kẻ phản kháng còn lại, mau chóng ổn định cục diện ở các sơn trại đã đóng chiếm. Cứ thận trọng, nắm chắc như vậy mà bức ép không gian tác chiến của người Man càng ngày càng nhỏ, bọn chúng chỉ có thể từng bước thối lui, bắt đầu tập trung ở các chốt quan trọng.
Nhưng cùng lúc đó, đối với người Man phục tùng thân cận, các quan địa phương mới nhậm chức lại cực kỳ hậu đãi, tài sản cá nhân và đất đai của họ hoàn toàn được bảo hộ, không cho bất cứ ai khi dễ chiếm cứ, cũng không ngăn cản quan phủ nào muốn chạy trốn, ngược lại có ý mượn miệng của những người này truyền chính sách quan phủ ưu đãi những ai chủ động đầu hàng vào sâu trong núi.
Dần dần, quả nhiên có một số người sợ chết, hoặc có người nhớ nhà nơm nớp lo sợ, thử ra khỏi núi đầu hàng quan phủ. Quan lại của các thôn xóm mới mở này quả nhiên đối đãi rộng lượng, làm theo lời hứa. Cứ như vậy, tuy người đến đầu hàng không nhiều, song dòng người kéo đến không dứt, mỗi ngày đều có người chạy ra khỏi trại.
Yên Cao Tài cũng để ý trong số những người này có thể có thám tử mà người Man cố ý thả ra. Dưới sự quản chế của quan lại và người dân địa phương, bọn họ không có được bất kỳ tình báo chân thực hữu dụng từ phía quân đội. Ngược lại chỉ nghe thấy những lời ảo diệu vô cùng, thậm chí còn có tin tức mâu thuẫn lẫn nhau, nếu trong đó thực sự có thám tử, e là khi tin tức truyền vào núi chỉ làm người Man càng thấy khó hiểu.
Triều đình chiêu an hậu đãi người đầu hàng, nghiêm khắc đả kích kẻ phản loạn, khiến sức chiến của người Man yếu đi nhiều. Trong hơn nửa tháng, những nơi người Man khống chế chỉ còn lại một số sơn trại hiểm yếu nhất, những nơi khác đều rơi vào tay đại quân triều đình.
Trong đại doanh Tự Châu, trên các ngọn núi khe sâu của sa bàn cắm đầy những lá cờ nhỏ màu đỏ. Còn số cờ màu lục tuy ít nhất nhưng lại cắm ở những chỗ cao nhất.
Dương Lăng chỉ vào mấy lá cờ màu lục:
- Những sơn trại còn lại, một phần trăm sơn trại không kịp vây công, nhưng cũng là các sơn trại lớn nhất, khó công nhất. Núi rừng rậm rạp, nguy hiểm hiểm yếu khó đi, có thể nói là đứng đầu Hoa Hạ. Tiêu diệt phỉ tặc, bình định Tự Châu có thể thành công hay không thì phải xem những địa phương này có bị đánh chiếm hay không, nếu không cuối cùng sẽ thất bại trong gang tấc...
Chu Nhượng Cận lo lắng nói:
- Khâm Sai đại nhân, người Man liên tục thất bại, hẳn là áp giải vương huynh ra làm con tin. Nhưng quân ta liên tiếp tấn công, người Man chỉ biết lui giữ chống cự, đúng là không bao giờ nhắc tới việc vương huynh bị bắt giữ, có khi nào vương huynh đã...
Dương Lăng trầm ngâm nói:
- Nhị vương tử không cần quá lo lắng, người Man bị bắt chẳng phải đều khai nhận thế tử bị nhốt ở Cửu Ti thành sao? Chưa bao giờ truyền ra tin thế tử bị hại, theo bản quan thấy, hẳn là A Đại cho rằng nơi đây thế hiểm, quân ta nhất định tiến công không được, do đó mới xem thường mà không dùng thế tử làm con tin ngăn chặn thế công của chúng ta, mà muốn đánh bại quân ta trên chiến trường, khiến quân ta không dám đánh nữa.
Chu Nhượng Cận há hốc miệng, cuối cùng thở dài, y biết Dương Lăng lựa lời an ủi. Quân Minh thắng như che tre, người Đô Chưởng Man chỉ biết liều chết ngoan cố chống cự, lại không đề cập tới chuyện thế tử. Cho dù người Man đầu óc ngu si, tâm cơ không nhiều, nhưng nếu bọn họ có thể dùng thế tử đề xuất các điều kiện với Thục vương trước, hiện tại sao không nghĩ đến việc đem thế tử ra trước trận ngăn cản quân Minh cho được? Xem ra bọn họ đã đánh giá sai lý trí của người Man, thế tử Chu Nhượng Hủ tám chín phần đã bị người Man hại rồi, chẳng qua mọi người đều ngầm hiểu chuyện này trong lòng, không ai muốn phá rách lớp cửa sổ giấy này mà thôi.
Phong Tham Chính sợ nhị vương tử đau lòng, vội vàng chuyển đề lài:
- Dương đại nhân, trước mắt các sơn trại còn lại đều dễ thủ khó công, nằm ngay Đồng Cổ Lĩnh trước mặt quân ta, bốn vách dựng đứng, khoảng cách đến trước cửa núi chừng mấy trăm thước. Chỉ có điều trong thung lũng có một đường nhỏ quanh co, người Man chỉ cần cho mấy người chất đá ở trên cũng đủ để ngăn chặn ngàn vạn binh mã, vô cùng khó công.
Dương Lăng mỉm cười nói:
- Đồng Cổ Lĩnh tuy rằng hiểm yếu, nhưng lúc trước đại quân triều đình tiến công lên núi nhiều lần thất bại, khó tiến nửa bước, nhưng thật ra là do lầm lẫn, không thể tự thức tỉnh từ trong mê trận, bằng không tại sao cả mấy chục vạn đại quân khó tiến nửa bước?
Chu Nhượng Cận cũng bị khơi dậy lòng hiếu kỳ, bèn thắc mắc:
- Cái gì? Sau khi chỉnh sửa chỗ hiểm yếu này theo miêu tả của tù binh, cảnh trí mô phỏng trên sa bàn đã rất chân thực, tại hạ xem qua bốn năm lần rồi, đúng là khó mà công phá. Đại nhân nói tự lạc vào mê lộ, ý này là...
Dương Lăng đến cạnh sa bàn, chỉ vào một cửa ải hiểm yếu nói:
- Nhị vương tử, Phong đại nhân, hai vị nhìn đi. Nơi đây là Đồng Cổ Lĩnh, ba nơi là vách núi cheo leo, khó mà trèo lên, muốn lên núi chỉ có mỗi con đường gập ghềnh này. Kẻ địch dựa vào thế núi mà xây lên nhiều công sự, dễ thủ khó công. Chỗ lầm lần mà ta nói chính là: Vì sao chúng ta nhất định phải tiến đánh các công sự này?
Dương Lăng chỉ điểm nói:
- Các công sự này đều xây dựng ở thế núi hiểm trở, cũng không làm đường. Đại quân của chúng ta khó mà đi qua, nhưng chọn ra một số tinh binh thân thủ khỏe mạnh có thể lách qua những công sự này. Binh sĩ sẽ xâm nhập đánh thẳng vào sào huyệt, hà tất phải tranh thắng bại với bọn chúng ở cửa núi?
Phải biết rằng công sự xây dựng ở nơi hiểm yếu, ở tận trên cao, dễ dàng trấn giữ, song lại bất lợi khi người Man xuất binh giáp kích cả trước lẫn sau. Hơn nữa trong công sự cũng không có nhiều lính, kẻ nào muốn vào tập kích, giáp công chúng ta cả trước lần sau, nếu dựa vào binh lực cũng không làm dược.
Chu Nhượng Cận hít sâu một hơi, nói:
- Đại nhân, kế này quá mạo hiểm, dù khinh kị xâm nhập lách qua các cửa ải hiểm yếu này, ta cũng không có cách nào đánh chiếm được các sơn trại sau đó. Đến lúc ấy mấy công sự đó gây trở ngại cho trọng binh di chuyển, binh sĩ xâm nhập không có hậu ứng, chắc chắn sẽ bị quân Man lao đến tiêu diệt.
Dương Lăng khen ngợi:
- Nói rất đúng, bằng một chi binh sĩ thì không cách nào đánh chiếm sơn trại, cho nên khinh kị của bản quan xâm nhập, tiến công sơn trại là giả, ngăn chặn viện quân sơn trại là thật. Chúng ta không cách nào công phá các công sự hiểm yếu trên núi từ bên ngoài, nhưng có thể leo lên trực tiếp từ hai bên sơn trại.
Ta phái người xông vào trước rồi quay lại giết, công sự trên đỉnh núi hướng về phía chân núi liền mất đi tác dụng lá chắn, số quan sĩ đột kích chắc chắn không ít hơn quân Man trong công sự. Sau khi đoạt được công sự, đại đội trọng binh có thể ung dung thông qua, chiếm sơn trại liền dễ như trở bàn tay.
Phong Tham Chính và Chu Nhượng Cận nghe chiêu "hồi mã thương" của Dương Lăng ngạc nhiên không thôi. Phong Tham Chính nói:
- Đại nhân, quân ta dù dũng mãnh đến mấy, nhân số khinh binh đột kích xông qua cũng cực kỳ hữu hạn, trước cửa trại không thể có nhiều người như vậy, cũng không thể kéo trọng pháo vào. Lúc này còn muốn phân binh lên núi phản kích công sự, người Man trong sơn trại sao không phản kích cho được? Binh sĩ đột nhập làm thế nào ngăn cản người Man trong sơn trại lao đến, kiên trì đến khi công sự bị công phá, đại đội quan binh đến giúp?
- Dùng đao thương đối phó dĩ nhiên không thể địch lại.
Dương Lăng thản nhiên nói.
Hai mắt Chu Nhượng Cận sáng rỡ, nói:
- Đại nhân nói vậy chắc chắn có vũ khí khắc địch rồi phải không?
Dương Lăng mỉm cười, nói:
- Trước kia bản quan đối phó với bọn mưu phản Đông Xưởng từng sử dụng hỏa tiễn cải tiến theo "Bách Hổ Tề Bôn Tiễn" trong quân, có thể để một người đeo sau lưng mà đi, lực sát thương kinh người, trong thời gian ngắn có thể lấy một địch trăm. Ta sớm đã báo cho Binh Khí cục Nam Kinh ngày đêm chế tạo, đồng thời còn chế tạo khẩn cấp các hỏa khí ngăn chặn và yểm trận như hỏa cầu gai, pháo chùm, pháo tổ ong, pháo phong trần... đủ dùng để ngăn cản viện quân lao ra từ trại Đồng Cổ Lĩnh.
Chu Nhượng Cận nói:
- Đại nhân, đây là đống hỏa khí ngày hôm trước bắt đầu vận chuyển ra doanh trại phải không? Thảo nào cực kỳ thận trọng.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đúng vậy, đống hỏa khí đó chuyển đến trong doanh của Lý Sâm, về phần Đồng Cổ Lĩnh, ta phải mời vị Chỉ Huy Sứ đại nhân này đích thân chỉ huy công chiếm rồi.
Chu Nhượng Cận vui vẻ nói:
- Địa thế Bặc Vương sơn và Đồng Cổ Lĩnh tương tự nhau, chẳng lẽ đại nhân cũng muốn dùng kế sách giống nhau?
Dương Lăng lắc đầu, lại gật đầu nói:
- Giống nhiều khác ít. Tuy Bặc Vương sơn và Đồng Cổ Lĩnh chỉ khác nhau chút ít, có điều hỏa khí tấn công Đồng Cổ Lĩnh lại không dùng được. Các vị xem đi, Bặc Vương sơn dốc đứng tứ bề, sừng sững như tường thành, dưới chân núi bốn phía không đường, duy có Tây Quan Khẩu và Sáp Kỳ sơn có đường lên.
Giữa sườn núi Hắc Mạo - đỉnh núi chính của Cai Sơn có dựng một sơn trại lớn bằng đá, trại này xây bọc quanh núi, dùng đá lớn làm tường, cao hơn một trượng, kích thước trong thành ước chừng trăm mẫu, gồm cửa trại lớn và cửa trại nhỏ. Trước cửa rộng rãi, tường thành bằng đá ở hai bên kéo dài mấy trăm thước. Nếu đại quân kéo đến dưới tường thành, muốn phá thành mà vào cũng không khó nữa.
Chỗ khó tiến công nhất của núi này không phải ở trước trại, mà chính là đường nhỏ chỉ vỏn vẹn hơn trăm trượng thông đến sơn trại, nơi hẹp nhất chỉ vừa đủ cho một xe đi qua. Mà bên cạnh nó là vách đá trăm trượng, trên vách đá dựng đứng là rừng rậm. Người Man trốn sẵn trong rừng ném cây ném đá xuống, dù bản quan có dùng một trăm ngàn đại quân chất đống cũng không qua được con đường chết chóc hơn trăm trượng này.
Chúng quan viên gật đầu lia lịa, nghĩ thấy chí phải. Quân Minh chiến đấu với người Man nhiều lần thất bại không phải vì chúng dũng mãnh khác thường, mà là do chỗ của bọn chúng nguy hiểm vô cùng, quả thực không ai có khả năng đối phó.
Dương Lăng tiếp lời:
- Những vách đá này vừa bằng phẳng lại cao, muốn bám cũng không được, phóng tên thì không tới. Người Man nấp ở trên, nếu chúng giết một trăm ngàn binh sĩ của ta, chúng chỉ tổn thất một trăm người, chỉ sợ đều do mệt chết, không có tên nào bị chúng ta giết chết. Chỗ hiểm của núi này là ở đây, nếu trong rừng rậm không có người Man mai phục ngăn chặn ở lối đi này, cái gọi là Bặc Vương sơn thế hiểm khó công có thể phá trong nháy mắt.
Chỉ có điều sơn trại bằng đá xây bọc quanh núi, cho dù phái khinh binh đánh tới dưới thành, trái phải vẫn là vách đá muôn trùng, không thể leo lên, cho nên chiêu "hồi mã thương" dùng để đối phó với Đồng Cổ Lĩnh không thể dùng được ở đây.
Các quan viên khác nghe xong ngơ ngác nhìn nhau. Dựa vào khẩu khí của Dương Lăng, hiển nhiên hắn đã có biện pháp đối phó nhưng lại không chịu tiết lộ. Quan viên văn võ không biết làm thế nào giải quyết vách đá trăm trượng bốn phía, cung tiễn khó phóng đến, linh vượn khó bám vào vách để mà đối phó với người Man trốn trong rừng rậm trên đỉnh núi.
Phùng Tri phủ không nhịn được, hỏi:
- Đại nhân chuẩn bị đối phó với chỗ hiểm yếu này thế nào?
Dương Lăng hít vào một hơi, thản nhiên nói:
- Mọi sự đã chuẩn bị, chỉ thiếu "Đông Phong". Bản quan cũng đang đợi, "Đông Phong" hẳn là cũng sắp tới rồi.
"Đông Phong" quả nhiên tới rồi.
Tên này là do Khâm Sai Dương Lăng đặt cho, Quân Khí cục Phúc Kiến sản xuất hỏa tiễn Đông Phong cấp hai đã vận chuyển tới.
Trong cuộc hải chiến tiêu diệt Oa, từng có Thủy sư tướng lĩnh quân Minh đề nghị sử dụng hỏa khí như "Hỏa Long Xuất Thủy". Tuy loại hỏa khí này bay khá xa, nhưng lực đẩy sinh ra từ hỏa dược châm ngòi không cân bằng, tính định hướng quá kém, hơn nữa hướng và tốc độ gió trên biển lại không ổn định. Một khi Hỏa Long phóng ra thì chỉ nghe theo ý trời, hiệu quả thực tế có hạn, Dương Lăng không vừa ý cho lắm.
Có điều hắn cảm thấy hứng thú với loại hỏa tiễn cấp hai nguyên thủy này. Tuy nó căn bản không thể so sánh với tên lửa vận chuyển đa cấp và đạn đạo bắn tàu ở hậu thế, nhưng người Trung Quốc thời Minh có thể to gan tưởng tượng, thiết kế ra loại vũ khí này, hắn cảm thấy sức tưởng tượng này càng thêm đáng quý, cho nên bảo lưu lại thiết kế nghiên cứu loại hỏa khí này của Quân Khí cục.
"Hỏa Long Xuất Thủy" là một loại hỏa tiễn dùng ở trên bờ và dưới nước. Thân rồng chế tác từ ống trúc mỏng dài năm thước, đầu ống gắn đầu rồng bằng gỗ, cuối ống là đuôi rồng bằng gỗ. Bên trong thân ống trang bị các nhánh hỏa tiễn, ngòi nổ đưa ra ngoài từ lỗ bên dưới đầu rồng. Trước sau thân rồng tổng cộng trang bị bốn ống phóng hỏa tiễn, nhìn qua tựa như phi long có bốn cánh.
Ngòi nổ của hai hỏa tiễn trước sau Hỏa Long được xoắn vào nhau, bộ phận dưới ống hỏa dược phía trước hỏa tiễn và ngòi nổ đưa ra từ đầu rồng, liên kết với nhau. Khi phóng ra, trước tiên châm lửa bốn ống hỏa dược dưới thân rồng để đẩy Hỏa Long bay về phía trước. Sau khi ống hỏa dược cháy hết, thần cơ hỏa tiễn trong thân rồng bén lửa bay ra bắn về phía kẻ thù. Loại hỏa tiễn này đã ứng dụng nguyên lý mắt xích, song song của hỏa tiễn, cự ly phóng ra có thể đạt đến hơn ba bốn dặm.
Ngoài ra còn có các hỏa khí đánh xa như "Thần Hỏa Phi Nha", "Phi Không Chấn Thiên Lôi". Thần Hỏa Phi Nha có đầu, đuôi và cánh chim, bay đến trăm trượng. Bên trong chứa thuốc nổ, dưới bụng cũng buộc chặt bốn ống hỏa tiễn để trợ lực. Những hỏa khí này phần lớn chưa đủ năng lực nhắm chính xác vào con người và mục tiêu cố định.
Đầu, thân và đuôi rồng tinh xảo của "Hỏa Long Xuất Thủy" vốn có tác dụng trang trí nhiều hơn, thực ra sẽ ảnh hưởng tới tính định hướng của hỏa tiễn và sinh ra lực cản khá lớn. Tuy cánh chim "Thần Hỏa Phi Nha" có mục đích tăng cường tính ổn định khi bay, song hình dạng cũng cực kỳ giống cánh chim thật, chẳng những chế tác tốn công tốn thời gian, nhưng vì chạy theo hình dáng nên tính ổn định cũng không tốt lắm.
Khi Dương Lăng đốc thúc nghiên cứu chế tạo pháo thần công ở Quân Khí cục thì bắt gặp các hỏa khí này. Hắn yêu cầu bỏ hết những cái tên mỹ miều của chúng, dựa theo tầm bắn khác nhau và tác dụng chủ yếu của hỏa khí mà thống nhất đặt tên hỏa tiễn Đông Phong số một, số hai, số ba.
Đồng thời, hắn sai chuyên gia hỏa khí Trịnh lão tiến hành cải tạo các bộ phận trang trí không có tính thiết thực."Hỏa Long Xuất Thủy" bây giờ là Đông Phong số một, toàn thân giống như giọt nước, tầm bắn xa nhất. Bụng rồng vốn dĩ cần mỹ quan chỉ có thể trang bị bốn mũi tên, hiện tại tăng tới bảy nhánh mũi tên, tác dụng từ sát thương đổi thành phóng hỏa là chính. Trong mũi tên có hỏa dược, bên ngoài bọc nhiều lớp giấy lụa rồi bôi dầu trơn, khi châm ngòi gió mạnh không tàn, dưới nước không lụi.
"Thần Hỏa Phi Nha" được cải tạo thành Đông Phong số hai vẫn có bụng to như cũ, tựa như một tàu con thoi, cánh chim vẫn giống thật, nhưng loại bỏ phần lông vũ đính vào, trở nên phẳng như giấy. Trong bụng chim chứa vật dẫn cháy dễ bắt lửa, đồng thời trộn thêm thạch tín, lân và những thứ có mùi khét cháy.
Khói lửa trong rừng rậm khó tắt, loại hỏa tiễn này phóng thích rất nhiều khói độc, cộng thêm hỏa tiễn bay tán loạn khắp nơi, trong rừng rậm nguyên thủy lá khô như bùn, dày đen vài thước...
Du Kích tướng quân Thôi Quý đứng trước Bặc Vương sơn, nhìn ngọn núi tối đen sừng sững như ngươi khổng lồ đánh giá một lúc lâu, sau đó gật đầu nói:
- Tốt lắm, thế núi này phần lớn dốc đứng như gương, chọc thẳng lên từ mặt đất. Tuy nguy hiểm vô cùng, nhưng thuận tiện phóng hỏa, phía dưới có vách đá cao chừng một trăm trượng, dù thế lửa trên núi lớn đến đâu cũng rất khó ảnh hưởng các núi còn lại, bằng không sẽ gây rất nhiều phiền toái.
- Bắt đầu đi!
Trong bóng đêm, từng nhánh hỏa tiễn vọt lên rực sáng phóng về phía ngọn núi tối đen kia, chỉ chốc lát tựa như một đám mây đen bao trùm đỉnh núi."Mây đen" càng tụ càng dày đặc, rốt cuộc che kín cả vầng trăng cong như móc câu.
Gần nửa canh giờ sau, bầu trời đêm đỏ rực, lửa cháy thiêu trời. Đứng nhìn từ xa, đừng nói là người nấp trên đỉnh núi, ngay cả đá cũng bị thiêu rụi, dù có đào sâu ba thước cùng đừng mơ tìm được chỗ nào ẩn thân.
Ánh lửa phản chiếu dưới chân núi sáng lòa, tin chắc chỉ cần đến trước núi, chỉ e đã sáng như ban ngày.
- Đại nhân, vì sao nhất định phải tiến công vào buổi tối?
Dù gì cũng đã canh ba, nhìn lửa khói được một lúc lâu, phó tướng Phan Đông ngáp một cái, chán chường hỏi.
Thôi Quý mặt đầy rỗ cười hì hì, nói:
- Lão đệ, đệ không hiểu đâu, đêm trăng lặn giết người, trời nổi gió phóng hỏa, giống như tìm kỹ nữ vậy, thân phận như chúng ta, để ý chuyện này làm gì?
Y nắm thật chặt chiến bào, cao giọng quát:
- Các huynh đệ, tiến công lên núi!
- Giết đi!
Bọn lính hô hoán, dưới sự chiếu rọi của ánh đuốc lớn nhất trong lịch sử, đại quân đường đường chính chính lao về phía sơn trại...
Lăng Tiêu sơn xây dựng vào những năm cuối Nam Tống, năm Bảo Hữu Ất Mão (tức năm 1225), quân Nguyên chiếm Vân Nam trước rồi vòng qua tiến công Tứ Xuyên. Để ngăn chặn quân Nguyên vào Tứ Xuyên, quân Tống ở Nhung huyện đã xây dựng tòa thành ở các nơi hiểm trở. Vì muốn có nơi đóng quân trữ lương thực, ra đánh vào thủ nên xây dựng Lăng Tiêu thành trên Lăng Tiêu sơn.
Lăng Tiêu thành và Điếu Ngư thành ở Hợp Xuyên, Lăng Vân thành ở Nhạc Sơn, Đông Cao thành ở Nghi Tân đều là các tòa thành trọng yếu chống đỡ quân Nguyên. Sau đó vì tướng trấn thủ Nhạc Sơn, Nghi Tân Thủ đầu hàng quân Nguyên, Lăng Tiêu thành mới bị công phá.
Sau khi bên ngoài tạm yên ắng, Tống Tiểu Ái và Ngũ Hán Siêu liền suất lĩnh Lang Binh lẳng lặng đến Lăng Tiêu sơn. Lúc này nhiệm vụ thanh trừ ở mọi nơi gần như kết thúc, nhân mã bắt đầu hướng đến các chỗ tập kết như Đồng La Lĩnh, Đô Đô trại, Lăng Tiêu thành.
Ngũ Hán Siêu vừa đích thân dẫn Lang Binh giỏi leo núi lên không ngừng thâm nhập trong núi, tìm hiểu tình hình gần Lăng Tiêu thành, vừa chờ đợi nhân mã tiếp viện Dương Lăng phái tới Lăng Tiêu sơn.
Đỉnh của Lăng Tiêu sơn cao chót vót như sắp chạm trời, đường lên núi chỉ có hai lối nhỏ chật hẹp. Một lối là từ "Đoạn Cổ Nham" thông đến cửa trại mới, lối còn lại là từ "đập Long Bi" đi qua bốn mươi tám khúc ngoặt thông đến cửa trại cũ.
Chỗ nối tiếp giữa "Đoạn Cổ Nham" và núi đất phía sau có một khe nứt rộng hơn bảy thước. Trên khe nứt có cầu gỗ, người đi qua cầu nhìn xuống khe nứt đáy sâu khó lường, khiến người ta run như cầy sấy, tay chân mềm nhũn. Đặt một đạo binh ở đây đúng là khổ sở cùng cực, mà phía trước cửa trại cũ bố trí nhiều lớp phòng vệ, cửa hiểm khắp chốn, muốn công phá cực khó.
Tướng trấn thủ nơi này là A Áp - huynh đệ của tù trưởng A Đại. Kẻ này sức mạnh vô cùng, hữu dũng vô mưu, tính tình tàn bạo, lần này chưa từng công khai làm loạn, trước đây thường xuyên dẫn người xuống núi quấy nhiễu, cướp bóc của cải, cường bức nữ nhân, bị người ta gọi A Áp. Bởi vì gã càn quấy ngông cuồng, những năm nay dân chúng gần đó đều tháo chạy, mười nhà thì trống chín nhà, hoang vắng vô cùng.
Nhưng Lăng Tiêu thành của gã thế hiểm khó công, bốn mươi tám khúc ngoặt giống như lạch trời khiến người ta không biết làm sao. Tống Tiểu Ái, Ngũ Hán Siêu cố ý chỉ phái một đội quân nhỏ tiến công, liên tiếp bị đánh về hết mấy lần. Hai người cũng không vội, lần nào cũng tỏ vẻ binh lực không đủ không có tự tin, bị thất bại liền lui binh, qua hai ngày nữa lại đến phá rối. Cứ đến phá đám như vậy nhiều lần, A Áp thấy mãi cũng quen.
Hôm nay, sau khi chuẩn bị đầy đủ, Tống Tiểu Ái rốt cục chuẩn bị động thủ. Mấy ngày nay sớm tối ở bên Ngũ Hán Siêu cùng nhau lãnh binh, hai người dường như lại trở về những ngày tháng chống chọi với giặc Oa ở Giang Nam trước kia. Tuy việc ngăn cản của lão Ngũ trước giờ vẫn là tâm bệnh giữa hai người, song ngoài mặt hai người vẫn lảng tránh chuyện đó, gần như hoàn toàn thân mật như ngày xưa.
Ngũ Hán Siêu dẫn theo hơn ba trăm Lang Binh được chọn kỹ. Ai nấy cũng ăn mặc rách rưới, áo vải da thú, bề ngoài giống với người Đô Chưởng Man. Hơn nữa họ còn đóng giả nam nữ già trẻ, đủ mọi thân phận, còn binh khí thì cất ở nơi kín đáo.
Muốn chiếm Lăng Tiêu thành, sau núi không thể công, trước núi đường lại gập ghềnh, khắp nơi đều là vách đá lởm chởm như nanh sói. Nếu họ muốn xông thẳng qua bốn mươi tám khúc ngoặt thì không thể nào.
Ngũ Hán Siêu tự mình dẫn trinh sát âm thầm điều tra, phát hiện luôn có dân chúng người Đô Chưởng Man chạy trốn lên núi, nhiều thì mấy trăm, ít thì mấy chục, vì thế mới nảy ra kế lừa thành này. Tầng tầng lớp lớp cửa ải trên Lăng Tiêu thành không tiện tiến công, nhưng nếu binh sĩ không đến trước thành, căn bản miễn bàn đến chuyện công thành.
Ngũ Hán Siêu mạo hiểm dùng mấy trăm dũng sĩ lừa qua cửa ải thứ nhất, coi đây là cứ điểm yểm hộ đại quân lên núi. Tuy hơn ba trăm người này được chọn lựa kỹ càng, nhưng áp lực mà họ gánh vác vô cùng lớn. Phải biết từ trên Lăng Tiêu thành nhìn xuống có bốn mươi tám khúc ngoặt hiểm yếu khó đi, có thể trông thấy binh mã dưới chân núi từ đằng xa, cho nên đại quân của Tống Tiểu Ái căn bản không thể theo sát phía sau ứng chiến mọi lúc.
Nếu lừa thành thất bại, hơn ba trăm người rất có khả năng chôn thây toàn bộ trước Lăng Tiêu thành. Cho dù lừa mở được cửa thành, lập tức phóng tín hiệu, đại quân của Tống Tiểu Ái muốn chạy đến trước thành cũng cần thời gian rất lâu. Trong thời gian đó đoạt quan ải chém giết, ngăn chặn người Man từ quan ải thứ hai lao đến đều phải trông cậy đội ngũ mấy trăm người của Ngũ Hán Siêu.
Tống Tiểu Ái vận tướng bào quân Minh, lẳng lặng nhìn bọn họ chuẩn bị thỏa đáng. Nàng im lặng đến trước mặt Ngũ Hán Siêu, thấp giọng nói:
- Tự mình cẩn thận chút, bảo trọng.
Ngũ Hán Siêu nhìn ánh mắt quan tâm của nàng, bỗng nhiên mỉm cười. Y nhớ tới lần đầu hai người bình định giặc Oa, vì đánh bại Đông Hoa Lộc chiếm núi ngoan cố chống cự, khi y đang leo vách ở sau núi, Tống Tiểu Ái cũng có ánh mắt ân cần như vậy. Nhưng giờ đây trong đáy mắt nàng lại chất chứa tình cảm sâu tựa biển cả mà khi đó không có.
Nàng vẫn là nàng, nàng cũng không phải là nàng, nàng trưởng thành rồi. Y vẫn còn nhớ rõ Tống Tiểu Ái đanh đá chỉ bảo mình giống như nô lệ nhà nàng, không nói lý lẽ lệnh cho binh sĩ Lang Binh tiến công lên núi, liều chết bảo vệ an toàn cho y. Còn lần này, cho dù nguy hiểm hơn nhiều, nàng càng lo lắng hơn, nhưng không truyền đạt mệnh lệnh như vậy nữa.
Nàng đã biết dùng lý trí khắc chế cảm xúc của mình, hiểu được thế nào là tôn trọng người khác, hiểu được đạo làm tướng.
Ngũ Hán Siêu gật đầu rồi yên lặng xoay người. Y vung tay lên, dẫn theo hơn ba trăm dũng sĩ xuất phát.
Tống Tiểu Ái nhìn theo bóng dáng bọn họ biến mất trong khe núi, lúc này nàng mới xoay người lại suất lĩnh các tướng trở về soái trướng. Nàng nghiêm túc quay sang nói với chúng tướng lĩnh các bộ:
- Chư vị tướng quân, Lăng Tiêu thành có chiếm được hay không thì phải xem hôm nay. Cận Thủ bị phụ trách đánh nghi binh sau núi, nhưng thấy trước trại bốc khói thì lập tức tạo thanh thế lớn kéo sự chú ý của người Man, giảm bớt áp lực của đội bạn trước trại, các ngươi lập tức xuất phát!
Cận Thủ bị chắp tay nói:
- Mạt tướng tuân lệnh!
Rồi y lập tức dẫn theo nhân mã của mình chọn đường chạy tới Đoạn Cổ Nham.
- Bộ phận của Lâm tham tướng phụ trách chuẩn bị dụng cụ công thành như dây thừng móc câu, thang treo thang gỗ. Khi bản quan dẫn binh sĩ lên núi gấp rút tiếp viện thì ngươi lập tức hành động, mau chóng lên núi. Việc cấp thiết nhất của ngươi chính là thời gian, tới càng nhanh càng tốt, đừng cho kẻ địch có cơ hội nghỉ ngơi.
- Mạt tướng tuân niệnh!
Lâm Tham tướng cũng lĩnh mệnh lui ra.
Tống Tiểu Ái chỉ huy quả quyết, rất có uy đại tướng, nàng lại nghiêm nghị phân phó:
- Trần phó tướng...
- Tống đại nhân!
Cửa kêu rầm một tiếng cắt ngang mệnh lệnh của Tống Tiểu Ái. Nàng ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn về phía cửa, chỉ thấy một vị quan râu dài quá bụng, mắt hổ mày rậm. Tuy lão vận bào phục quan văn, song uy phong sát khí còn mạnh hơn vài phần so với các võ tướng trong tướng.
- A! Nhạc phụ tương lai đến rồi.
Tống Tiểu Ái giật mình, hàng lông mày nhướn lên, vẻ mặt tươi cười ngọt ngào, khéo léo nói:
- Ngũ đại nhân, ngài... chuyển lương thảo đến rồi sao?
- Ừ! Chuyển lương thảo đến rồi!
Ngũ Văn Định hậm hực vào soái trướng đứng chống nạnh, không thèm thi lễ, vẻ mặt tức giận cực kỳ.
Nhưng Tống Tiểu Ái lại vui mừng trong lòng. Mấy lần Ngũ Văn Định chuyển lương thảo tới dây, Ngũ Hán Siêu đều sợ hãi trốn tránh, còn ông ấy chuyển lương xong liền rời khỏi, căn bản không hề tiếp xúc với nàng, hiếm khi ông ấy chịu vào trướng nói chuyện với nàng như hôm nay.
Tống Tiểu Ái vội hỏi:
- Bản quan đang thảo luận quân tình đại sự, Ngũ đại nhân có chuyện quan trọng cần thương lượng sao?
- Quân tình đại sự?
Ngũ Vãn Định càng nghe càng giận, nói:
- Hạ quan đang muốn hỏi đại nhân định bàn quân cơ đại sự tới khi nào, hạ quan còn phải chuyển lương thảo xuống chân núi Lăng Tiêu vài lần nữa.
Tống Tiểu Ái mở to mắt, ngạc nhiên hỏi:
- Ngũ đại nhân, ngài có ý gì?
- Ý gì hả? Hừ!
Ngũ Vãn Định tức giận nói:
- Tiến độ tiêu diệt phỉ tặc của quan quân các nơi cực kỳ nhanh chóng, nhưng còn ở đây? Nghị sự suốt ngày, đánh nghi binh, đến nay vẫn chưa đánh được trận nào đàng hoàng, lãng phí không ít lương thảo, các ngươi nghĩ vận chuyển lương thảo đến đây dễ lắm à? Linh quân nhu của ta chuyển lương mấy lần đều bệnh hết cả đám, trượt chân rơi xuống vách đá hết bảy người, vậy mà các ngươi vẫn đang thương nghị sao!
Lão Ngũ vốn xem thường nữ nhân cầm binh. Tính ông ăn ngay nói thẳng, không ở trong quân của Tống Tiểu Ái nên không hiểu toàn bộ kế hoạch, cho nên đương nhiên cho rằng Tống Tiểu Ái yếu đuối sợ đánh. Đi một chuyến chuyển lương đến đây, trong lòng ông lại tích tụ thêm một phần oán khí.
Vì đường núi hư hỏng nên lần chuyển lương này tổn thất rất lớn, còn có bốn người bị ngã chết. Không ngờ vừa mới chuyển lương vào doanh đã nhìn thấy một đội quan binh ra doanh, sau khi hỏi hắn mới biết Cận Thủ bị đã lãnh binh đến Lăng Tiêu thành đánh nghi binh.
Lần này lão Ngũ tức giận, còn đánh nghi binh nữa? Phải đánh đến khi nào mới được? Do đó lão Ngũ xông vào soái trướng khiển trách Dung soái.
Tống Tiểu Ái vội giải thch:
- Ngũ đại nhân, ngài có điều không biết...
- Ngươi tuy là chủ soái, đừng quên trong bảy điều quân pháp của Khâm Sai đại nhân có nói ai sợ địch chạy trốn sẽ trảm. Bản quan trở về Tự Châu sẽ bẩm báo tình hình nơi này với Khâm Sai, cả đám các ngươi sợ đánh giặc, làm hỏng thời cơ chiến đấu, ngồi xem người Man hoành hành, hao phí quân lương, làm gì có lý này.
Tống Tiểu Ái há hốc mồm, không chen vào được, trong lòng cũng từ từ bốc hỏa. Nàng chưa kịp nổi cơn, Trung Quân Quan đã tức giận.
Chi quân đội này chỉ là tạm thời tập trung, chư tướng dưới trướng lại thuộc các bộ phận khác nhau, Trung Quân Quan cũng là tạm thời phái tới, y không biết ông lão rậm râu chuyển lương này là ai. Thấy ông ta la lối, trách cứ chủ soái và các vị tướng lĩnh trong soái trướng, Trung Quân Quan lập tức ra mặt.
Y chỉ vào mũi của Ngũ Văn Định quát:
- Ông muốn nói quân pháp à, vậy biết mười bảy luật cấm năm mươi bốn điều trảm chú? Ai nhiều lời oán hận, nổi giận với chủ tướng, trảm! Ai tụ tập bàn luận, lén vào trướng, trảm! Ai thăm dò địch không kỹ, làm loạn quân ngũ, trảm! Quan chuyển lương to gan, làm loạn quân ngũ, chỉ trích thượng quan, phạm nhiều điều luật. Người đâu, áp giải lão ra ngoài, trảm!
Quan binh đứng hai bên đã sớm mất kiên nhẫn, họ tiến lên khống chế hai tay của Ngũ Vãn Định rồi lôi ra ngoài.
"Này!", Tống Tiểu Ái giơ tay hô một tiếng rồi nhìn hai bên, không ai lên tiếng.
Nàng trừng to mắt, sau đó lại trợn lên:
- Cả đám ngu ngốc, tại sao không ai hô đao hạ lưu nhân?
- Đao hạ lưu nhân! Khoan hãy động thủ!
Một tiếng hô bất chợt truyền ra từ trong soái trướng.
Người lên tiếng chính là chủ soái ba quân Tống Tiểu Ái Tống đại nhân.