Hậu viện của Thanh Dương cung có ba đài, bên trái là Hàng Sinh đài, bên trên có đặt một bức tượng tiểu oa nhi màu trắng, truyền thuyết nói rằng bức tượng này chính là Thái Thượng lão quân lúc mới sinh. Dưới đài sinh trưởng một cây bạch quả cao lớn, một vị mặc áo bào màu xanh ngồi trên bồ đoàn ngay dưới tán cây, hai chân khoanh tròn, hai tay đặt trên hai đầu gối, gương mặt thanh quắc khoảng chừng bốn mươi tuổi.
Chu Nhượng Cận cùng với Bố Chính Sứ An Văn Đào và An sát sứ Lục Chính đi tới, thấy ông vẫn đang nhắm mắt ngồi im, ba người vội vàng bước thật nhẹ, chậm rãi đi đến phía sau lưng ông, cung kính đứng chờ.
Người mặc áo bào xanh đang ngồi sắc mặt trắng xanh, không có một tia huyết sắc. Ông tĩnh tọa thật lâu mới thở dài nói:
- Cận nhi?
Chu Nhượng Cận vội vàng khom người nói:
- Phụ vương, là hài nhi. Còn có An đại nhân, Lục đại nhân tới thăm phụ vương
Người ngồi dưới tàng cây bạch quả nhắm mắt ngồi thiền chính là đệ nhất Hiền vương tiếng tăm lừng lẫy Đại Minh Chu Tân Hàn. Ông không bình luận gì thêm mà chỉ "ngô" một tiếng, thả lỏng hai chân, xoay người lại nói:
- Đã sắp xếp chỗ ở ổn thỏa cho khâm sai?
An Văn Đào vội đáp:
- Vâng! Hạ quan dẫn theo quan viên văn võ đất Thục đón khâm sai vào thành, khâm sai đại nhân nói qua, Hoàng thượng ở kinh thành cũng nhắc nhở đến bệnh tình của vương gia, dặn dò khâm sai đi qua Tứ Xuyên ghé thăm vương gia, hẳn là ngày mai sẽ đến.
- Ha hả. Hoàng thượng dặn bảo hắn thay mặt người đến thăm ta?
Thục vương thản nhiên cười nói:
- Cô vương bệnh tình thay đổi thất thường, cái mạng này sớm đã không còn nữa, còn phải đến thăm sao?
An Văn Đào và Lục Chính sợ hãi mà nói:
- Vương gia là linh hồn của Ba Thục, là trụ cột tây nam, triều đình và dân chúng Ba Thục đều hy vọng vương gia có thể sớm bình phục. Vương gia đang lúc tráng niên, chỉ cần tĩnh dưỡng nhất định có thể bình phục, mong vương gia không nên nói những lời như vậy.
Thục vương lắc đầu, khoát tay nói:
- Bệnh của ta, ta biết rõ. Không cần nói chuyện này nữa. Điều ta lo lắng chính là thế tử, Nhượng Hủ đang ở Tự Châu điều đình vụ việc Đô Chưởng Man cùng người Hán tranh chấp, việc này liên quan đến Ba Thục và cả an nguy của các tỉnh Vân Quý.
Bản vương lúc này không thể tự mình xử lý việc này, thế tử lại là lần đầu đảm đương trọng trách lớn như vậy, ta rất lo lắng, hiện giờ chỉ mong hai vị đại nhân có thể ra sức giúp đỡ thế tử dẹp yên tai họa này, như vậy cũng chính là chuyện tốt cho Ba Thục.
- Việc này cũng là bản phận của hạ quan, hạ quan nhất định tận sức, xin vương gia cứ yên tâm!
Hai người An Văn Đào vội vàng khom người thi lễ.
Thục vương gật gật đầu nói:
- Ừ, khâm sai đã tới Tứ Xuyên, tình hình chính trị quân sự nhất định là muốn tìm hiểu rồi, hai vị đại nhân công vụ bề bộn còn phải tiếp đón sứ giả triều đình, lại càng thêm bận rộn, những ngày này không cần phải đến thăm ta. Bệnh ta của ta bất sinh bất tử, ha ha, cũng không cần tới thăm nhiều.
Hai người An Văn Đào còn muốn nói thêm, nhưng nhìn thấy sắc mặt Thục vương đã có chút mệt mỏi, hai người chỉ thở dài một tiếng, khom người nói:
- Hạ quan tuân mệnh, sẽ trở về nha môn, chuẩn bị công văn án thư trình khâm sai đại nhân, mong vương gia nhất định giữ gìn sức khỏe.
Hai người biết Thục vương hạ lệnh đuổi khách sớm như vậy, nhất định là nhị vương tử có chuyện quan trọng, không chậm trễ chỉ nói hai câu liền rời đi. Hai người vừa đi khỏi, Chu Nhượng Cận lập tức khẩn trương, hai tay áo buông xuống, cung kính đứng trang nghiêm, một cử động cũng không dám động.
Thục vương gia giáo rất nghiêm. Chu Nhượng Cận luôn biết giữ mình trong sạch, không rượu chè cũng không trầm mê nữ sắc, không kết giao phóng đãng, bằng hữu thân mật ngoại trừ vài danh sĩ tài tử như Dương Thân, Thanh Thành cuồng sĩ thì những kẻ còn lại phần lớn đều là vương tộc thân hữu. Dù là như thế nhưng y vẫn thường xuyên bị Thục vương khiển trách bê tha, không có tư tưởng tiến thủ. Chu Nhượng Cận từ nhỏ đã đối với phụ thân vừa kính vừa sợ.
Chu Nhượng Cận chỉ cần nói đúng lần này hắn đến Lô huyện chơi để phụ thân biết được, chắc chắn sẽ lại bị khiển trách, cho nên y chỉ biết cúi đầu không dám nhìn ông, chờ đợi tiếng mắng. Không ngờ đợi nửa ngày cũng không thấy gì. Chu Nhượng Cận kỳ quái ngẩng đầu lên, chỉ thấy Thục vương khẽ cau mày, trầm ngâm một lúc lâu sau mới giống như lẩm bẩm mà nói:
- Dương Lăng là đại thần rất được đương kim Thánh thượng tin tưởng. Hoàng thượng vừa mới đăng cơ đã phát thần tử tín nhiệm nhất thay người tuần du thiên hạ, tìm hiểu tình hình quân chính, vốn dĩ là chuyện bình thường. Nhưng Dương Lăng rời kinh, không dừng lại ở Sơn Đông, Giang Tô Kim Sơn dừng hai ngày, mục đích chính chính là muốn quét sạch Bạch Liên dư nghiệt của Hồng Anh hội.
Hắn tới Chiết Giang, Phúc Kiến lại lấy thân phận Tổng đốc sáu tỉnh, đứng lên chống Oa và chiêu hàng hải tặc, lại trợ giúp Malacca phục quốc. Hắn tới đâu cũng đều có mục đích. Sau đó tới Giang Tây, Hồ Nam, Quý Châu, mỗi nơi chỉ dừng lại không quá bốn ngày... ngô... hắn có nói qua sẽ ở Ba Thục bao lâu không?
- Hài nhi không biết!
Huyền Y công tử Chu Nhượng Cận tính cách anh tuấn, kiến thức sâu rộng, nhưng ở trước mặt phụ thân thở cũng không dám thở mạnh, hỏi gì đáp nấy, không dám nói nhiều một câu nào.
Thục vương trừng mắt nhìn hắn, lắc đầu thở dài:
- Nhượng Cận à, cách đối nhân xử thế con nên học theo huynh trưởng một chút, vi phụ cũng có thể cho con làm chút chuyện. Cả ngày con chỉ biết ở cùng đám cuồng sĩ tài nữ, ngâm thơ vẽ tranh, tự xưng là phong lưu, thật sự là không có chí tiến thủ. Con đường đường là con thứ của Thục vương, còn muốn mang danh hiệu Huyền Y công tử, có gì vui sao?
- Vâng, hài nhi đã biết.
Chu Nhượng Cận cúi đầu càng thấp.
- Dương Lăng đi qua Giang Tây, Hồ Nam, Quý Châu đều không làm gì nhiều, đối với tình hình quân chính địa phương cũng không thật sự tra xét, xem ra đại thiên tuần thú chỉ là ngụy trang, mục đích thực sự chính là giặc Oa và đám hải tặc. Nếu là như vậy thì hắn cũng không nên ở Tứ Xuyên lâu mới phải.
Thục vương nhẹ nhàng đứng dậy, Chu Nhượng Cận vội vàng tiến lên đỡ lấy, phụ tử hai người chậm rãi bước lên dường đá dẫn đến Hàng Sinh đài.
Hai người vừa đi, phía sau hai tiểu thái giám chạy tới cầm lấy bồ đoàn của Thục vương, xa xa theo ở phía sau.
- Phần lớn các chủng tộc ở đất Thục như Khương, Tạng, Miêu, Di... tộc nhân đều rất hiếu chiến rất khó trấn an, hiện tại Đô Chưởng Man lại đang gây hấn, Dương Lăng người này công trạng to lớn, nếu bị hắn biết được, nói không chừng sẽ vì thành tích mà lại động binh đao, gây ra chiến loạn, khiến Ba Thục không ngừng chinh chiến, hủy hoại tâm sức của vi phụ nhiều năm kinh doanh mới duy trì được cục diện yên ổn.
Cận nhi à, xưa nay ngươi thích tụ tập uống rượu, phụ vương thường xuyên quở mắng ngươi, lúc này ngươi có thể làm hết khả năng, huynh trưởng không có nhà, ngươi hãy thay mặt phụ vương tới thăm mở tiệc chiêu đãi Dương Lăng vài lần, khiến cho vị thân cận của thiên tử có chút việc làm, tránh hắn ở Tứ Xuyên sinh sự.
- Hắn có nói phụng hoàng mệnh tới thăm ta, chúng ta mời lại tạ ân, cũng không thể tính là vượt qua lễ giáo triều thần.
- Vâng, phụ vương yên tâm, hài nhi sẽ lo liệu.
- Aizz, thật sự là thời buổi rối ren a. Từ khi vi phụ sinh bệnh, thổ ty các vùng lại có biến. Huynh trưởng ngươi lại là lần đầu chịu trách nhiệm hòa giải các bộ tộc tranh chấp, tộc Man này xưa nay nổi tiếng dũng mãnh, hai kẻ chỉ bởi vì tranh nhau một nhúm muối ăn cũng có thể gây ra đại chiến giữa hai bộ tộc mấy vạn người, vi phụ thực sự rất lo lắng.
Đô Chưởng Man lại là kẻ cực kỳ khó thuyết phục, từ trước đến nay đều không phục lệnh vua, giang sơn Đại Minh hơn trăm năm, bọn họ cùng người Hán cũng chưa lúc nào ngừng va chạm tranh chấp. Năm kia tiên đế còn ban chiếu khen ngợi vi phụ trị chính có công, giáo hóa một phương, khiến cho đất Thục trở thành một nơi yên bình thịnh vượng, còn truyền các chư vương nơi gương vi phụ.
Những lời nói này vẫn còn văng vẳng bên tai ta, nếu lúc này sự việc của Đô Chưởng Man dàn xếp không xong, làm lộ ra chẳng phải khiến người khác chê cười sao? Đô Chỉ Huy Sứ vừa mới thay người, sự việc náo loạn lên muốn che giấu sợ cũng không giấu được. Vi phụ mặc dù ở trong Thanh Dương cung, nhưng sự việc hiểu rõ như vậy sao có thể yên lòng, sao có thể tu thân dưỡng tính đây?
Thục vương Chu Tân Hàn mới khoảng bốn mươi tuổi, lại giống như bị gánh nặng oằn xuống lưng, biến thành một lão nhân gia tuổi già suy yếu, phải nhờ đến hài tử một bên giúp đỡ, vừa lo lắng nói, vừa đi đến chỗ ở dưới những tán cây xanh.
- Thục vương hai năm qua thân thể vẫn không khỏe, luôn ở trong nhà, mọi chuyện trong vương phủ đều do thế tử Nhượng Hủ thay mặt giải quyết. Thế tử có phong cách giống cha, trầm ổn từng trải, xử sự bình tĩnh, có công lớn bình ổn một phương, cho nên chẳng những được Thục vương khen ngợi, mà dân chúng đất Thục cũng rất kính yêu.
- Nói như vậy, trên thực tế trong hai năm qua, Thục vương thực sự cũng không phải Chu Khách Hãn mà là Chu Nhượng Hủ rồi sao?
- Nói như vậy... thật sự cũng không sai. Chu Nhượng Hủ là thế tử của Thục vương, tương lai sẽ là Thục vương. Dân chúng quy phục, lại được Thục vương ủng hộ, vị trí của hắn trong lòng quân dân Tứ Xuyên quả thật là không kém phụ thân hắn. Tuy nhiên, mười lăm đạo quân thổ ty so về thế lực quyền lực thậm chí còn lớn hơn Thục vương phủ và nha môn Bố Chính Sứ, Chỉ Huy Sứ.
Liễu Bưu đến Tứ Xuyên mấy tháng, xem ra tình hình nơi này đã rõ như lòng bàn tay, trả lời rất trôi chảy:
- Triều đình giao cho đám quan lại thổ ty quyền lực rất lớn. Các bộ tộc chỉ cần không đề cập đến chuyện của người Hán, thì dù là dân chính hay luật pháp cũng hoàn toàn do quan lại thổ ty tự mình quyết định. Dân chúng các bộ tộc nơi này chỉ biết có thổ ty, không hề có ý quy thuận triều đình.
Thiên hạ đều truyền nhau rằng Thục vương hiền đức, lấy lễ giáo đối đãi, tạo phúc cho dân, phục hồi kinh tế ổn định trận tự, tạo nên một Ba Thục thịnh vượng giàu có, bách tính an cư lạc nghiệp, theo ti chức điều tra được, những điều này đều là sự thật, nhưng cũng có chút cường điệu. Vương tộc ở đất Thục đông đúc, hơn trăm năm qua không ngừng mua đất, hiện giờ chỉ lấy thành đô làm ví dụ, đất của gia tộc Thục vương đã chiếm bảy thành, vệ sở đồn điền chiếm hai thành, mà chỉ có một thành đã có nông dân thổ ty, còn lại tất cả đều là tá điền của Thục vương. Chỉ có điều Thục vương thu thuế ruộng khá thấp, tá điền canh tác thu được cũng không ít hơn đám người thổ ty, cho nên đám tá điền chỉ có mang ơn chứ chưa từng có người nào sinh oán giận.
Dương Lăng đạm cười:
- Không làm những chuyện chỉ thấy cái lợi trước mắt, trong đám phiên vương coi dân chúng như cỏ rác, Thục vương xem ra cũng khá nhân từ rồi. Có điều một gia tộc nhiều của cải như vậy, đất đai không ngừng tăng lên, sớm muộn cũng sinh tai họa. Chỉ cần kẻ kế thừa chức vị Thục vương trong tương lai không hành sự theo lời dạy tổ tiên hậu đãi dân chúng, chỉ dựa vào việc hắn chiếm nhiều ruộng đất như vậy, lập tức sẽ đẩy dân chúng vào cảnh nước sôi lửa bỏng.
Hắn liền cắt ngang lời nói của Liễu Bưu:
- Cứ như vậy chẳng lẽ lại không có điểm nào xấu hay sao? Thục vương hiền minh, nhưng cũng không thể bảo đảm toàn gia tộc mỗi người trong lòng đều từ bi, đất đai chiếm được nhiều rồi, cũng không cần nhiều tá điền như vậy, tại sao trước giờ chưa từng nghe nói có dân lưu lạc đến Trung Nguyên? Hay là Thục vương có biện pháp nào khác sắp xếp cho bọn họ?
Trong mắt Liễu Bưu hiện lên một tia khâm phục, nói:
- Đại nhân sáng suốt. Ở Ba Thục, dân chúng lưu lạc không có đất đai cũng không thể đi làm thuê đúng là không ít, tuy chính sách dân chúng không được dẫn tiến không được phép tự ý rời khỏi quê hương đã sớm hữu danh vô thực, không còn được thi hành, nhưng ở đất Thục thì vẫn còn được áp dụng, dân chúng lưu lạc bị quan phủ khống chế, không được phép lưu vong, cho nên đã đi sâu vào núi, ra nhập các bộ tộc để tìm kế sinh nhai.
- Những tộc man di này dũng mãnh, mà người Hán chúng ta lại có trí tuệ, có sự gia nhập của đám dân này, nguy cơ vùng thổ ty lại khó đối phó hơn rồi. Thổ ty đương nhiệm Tiểu Kim Xuyên chính là Thác Bạt Vũ, cũng là bởi vì không có ruộng đất không nghề nghiệp mà trôi dạt khắp nơi, đi theo quan thổ ty Khách Ba Đại Lạt Ma, và trở thành phụ tá thân tín nhất của hắn.
Khách Ba là hoàng giáo Lạt Ma, không hề kết hôn cho nên khi chết đi đã truyền ngồi vị quan thổ ty cho Thác Bạt Vũ. Thác Bạt Vũ này có thể do năm đó lang thang vất vưởng chịu đủ loại đau đớn thê thảm cho nên so với người Tạng lại càng thù hận người Hán. Hiện tại, mặc dù nữ nhi của hắn và con vợ kế của Thục vương có quan hệ không tầm thường, nhưng Thác Bạt Vũ vẫn không bước vào thành đô dù chỉ một bước.
Dương Lăng hơi hơi cau mày:
- Đất Thục nhìn qua chính là khu vực thái bình thịnh trị nhất, nhưng thực ra thì những sóng ngầm đã bắt đầu dấy lên rồi, không biết có bao nhiêu thế lực đang âm thầm chuẩn bị cho cuộc chiến. Đúng là làm khó cho Thục vương, không biết ông ta đã hao phí bao nhiêu tâm tư để duy trì cân bằng và sự thái bình tạm thời bên ngoài. Nhưng chỉ cần một chút sơ sẩy, một vấn đề bị bại lộ sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề kéo theo làm cho sóng gió càng lớn, Thục vương lúc này chính là đang ngồi trên đầu sóng ngọn gió.
- Tuy nhiên khu vực có nhiều dân tộc chung sống với một gia tộc có dã tâm mà nói, cũng là nơi dễ dàng xảy ra những mâu thuẫn gay gắt tạo điều kiện cho đám người có ý đồ mưu phân phát triển. Giả sử có một kẻ như thế xuất hiện, ông ta nắm giữ toàn bộ những nơi giàu tài nguyên thiên nhiên, gia tộc của ông ta qua hơn trăm năm tích lũy, tích góp từng chút một cũng đủ của cải để phục vụ cuộc chiến, lại còn cả vùng đất đai rộng lớn có thể cung cấp lương thảo đầy đủ.
Trong đất của ông ta có nhiều bộ tộc dũng mãnh, không cần huấn luyện cũng có thể lập tức chiêu mộ được hơn mười vạn kẻ trời sinh anh dũng thiện chiến.
Hơn nữa, đám người này đối với triều đìmh cũng không vừa ý, chỉ cần lợi dụng điểm này, dùng chút xảo thuật cũng có thể khiến bọn họ từ đối lập với mình chuyển sang căm hận triều đình Đại Minh, mà ông ta lại có thể lợi dụng được nhận thức xứ sở hơn một trăm năm sống xe kẽ nhiều tộc người.
Thêm vào đó hứa với bọn họ vài chuyện tốt, nhất định sẽ khiến bọn họ trở thành đồng minh của chính mình. Trong lúc đó, bản thân ông ta đã có tiếng hiền danh, mà kẻ ngồi ở vị trí cao cao tại thượng mang danh thiên tử không làm những việc một hoàng đế nên làm thì trong mắt dân chúng cũng trở thành chuyện hoang đường. Như vậy việc phản này cơ hội thành công có được bao nhiêu?
Dương Lăng cẩn thận tính toán một hồi, vẻ mặt lộ ra kinh hãi kết luận:
- Nếu ta muốn làm hoàng đế, lại có nhiều điều kiện như vậy, khả năng thành công nắm chắc là rất cao, đáng để ta mạo hiểm tội tru di để thử một lần. Như vậy... Thục vương có muốn làm hoàng đế hay không? Tương lai liệu Thục vương có hay không dã tâm muốn làm hoàng đế?
Hắn nhớ Chính Đức hoàng đế có cho hắn xem qua thư mật của Đông Xưởng. Nét chữ viết ngoáy, chỉ đơn giản có một câu, do người của Đông Xưởng ở Tô Châu Thiên Hộ Vương Tình viết cho bằng hữu lúc ấy đang ở Giang Nam thụ lý tài sản là Đông Xưởng Thất đáng đầu Hàn Hữu Huệ. Trong thư viết rằng: "Hàn huynh, hiệm vụ được phân công cho tiểu đệ tạm gác lại một bên. Đệ ở Tô châu trấn Lục Mộ phát hiện một chuyện kỳ lạ, có người dùng số tiền lớn mua vàng chuyển đến Ba Thục, sự việc nghiêm trọng, đệ nghi sợ Thục vương có phản ý cho nên đã khẩn cấp đi điều tra. Tình hình cụ thể đệ sẽ bẩm báo lại sau. Đương sự là người của hoàng tộc, một khi tin tức sai chính là đại họa, mong huynh xem tin xong lập lức hủy thư".
Gạch vàng dĩ nhiên không phải là khối vàng thật, mà là loại gạch lát nền mà chỉ hoàng đế mới có thể sử dụng, cả nước chỉ có ở trấn Lục Mộ Tô châu, nhưng loại gạch này rất độc đáo, chi phí làm ra đắt tiền, từ lúc chuẩn bị cho đến khi nung xong cũng phải mất hơn một năm.
Quan trọng hơn chính là ý nghĩa chính trị của nó. Thời Hồng Vũ có một vị tướng quan, chỉ vì ái thê vi phạm quy củ cài một cây trâm phượng mà chỉ có hoàng phi mới có quyền đeo, mà cả nhà mang tội chết lại bị tịch thu tài sản. Quân đội và quản chế thôn Ngự Diệu trông coi cực nghiêm, không có công văn chính thức, tự đúc gạch vàng dù chỉ một khối cả nhà cũng bị tử hình, tịch thu tài sản.
Như vậy tính ra, chỉ mua chuộc đám quan binh trông giữ và dám thợ thủ công làm gạch cũng là tốn một món tiền khổng lồ rồi, nếu không phải muốn xưng đế mưu phản, sửa sang vương phủ trở thành điện Kim Loan, hương thụ một chút phong vị làm hoàng đế thì mua loại gạch đó để làm gì? Địa thế của đất Thục, tiến có thể công, lui có thể thủ, nếu đánh không được, lui về giữ Ba Thục, dựa vào địa thế hiểm trở, lòng dân ủng hộ, muốn xưng đế một phương, ít nhất cũng có thể kéo dài được mười mấy năm hoàng vị.
Cho nên mặc dù chỉ là có người đến mua gạch vàng, nhưng Vương Tình cũng không phải là suy đoán thái quá, sự việc này đúng là việc cực kỳ khẩn cấp nghiêm trọng, nên lập tức điều tra. Có điều Vương Tình đi lần này lại giống đem đá ném xuống biển, thêm bốn cận vệ năm người cùng nhau biến mất, không tìm ra được tung tích. Hàn Hữu Huệ lúc này mới cảm thấy được mức độ nghiêm trọng của sự việc, không dám giấu giếm, cẩn thận suy xét lại nội dung bức thư của Vương Tình một lần, rồi phi ngựa hồi kinh bẩm báo.
Phạm Đình Trình báo lên hoàng cung, Chưởng án thái giám là Vương Nhạc là một kẻ cẩn thận, cầm trong tay bức thư đơn giản lại không có bằng chứng như vậy, sao dám tấu lên trên nhận công? Sao dám kêu gọi phiên vương khắp thiên hạ giống như Thục vương học tập Hoằng Trị hoàng đế? Cho nên y chỉ có thể ra mật lệnh cho Đông Xưởng bí mật điều tra. Đông Xưởng phái đi một đôi nhân mã, tra xét hơn một năm cũng không tìm được manh mối nào. Cho nên vụ việc không có đầu mối này trở thành nghi án chưa thể giải quyết, bức thư cũng được để vào trong hộp đựng tin tức cơ yếu nhất của Vương Nhạc, cho đến lúc bị Lưu Cẩn sao chép ra và lợi dụng sự việc.
Dương Lăng trầm tư không nói, Liễu Bưu ở bên cạnh lẳng lặng chờ. Qua một lúc lâu, Dương Lăng mới nói:
- Thục vương nếu như có phản ý, giấu giếm ai cũng sẽ không gạt thế tử của mình. Chu Nhượng Hủ chắc chắn nắm được tình hình. Thục vương sinh bệnh dù thật hay giả, thân là thế tử cũng sẽ thay mặt Thục vương đi giải quyết sự vụ.
Chúng ta giả sử rằng Thục vương thật sự có phản ý, những việc như liên lạc với đồng minh, trao đổi việc quân cơ, ông ta không thể ra mặt, người bình thường lại không có tư cách đàm phán, như vậy kẻ có tư cách thay thế ông ta chỉ có một, chính là người thừa kế tương lai của ông ta, thế tử Chu Nhượng Hủ. Như vậy chúng ta cần để mắt đến vị thế tử này, mới có thể có kết quả. Hắn hiện tại đang ở đâu?
- Ở Tự châu. Nghe nói Đô Chưởng Man và những người Hán ở đó có xảy ra xung đột.
Liễu Bưu vẻ mặt nghi ngại nói:
- Triều đình dùng ân đức, thủ đoạn dụ dỗ những bộ tộc thổ ty, Thục vương đòi thứ nhất thường khoe khoang lấy nhân đức giáo hóa man di, lại làm tình hình nghiêm trọng hơn. Mỗi khi xung đột xảy ra đều bày tỏ thái độ muốn dàn xếp ổn thỏa, thiên vị cho tộc Man. Cho nên các bộ tộc mỗi khi có xung đột, vẫn chưa đến mức quá lớn, thì chỉ cần Thục vương ra mặt hòa giải, như vậy chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ thành không có gì.
Dương Lăng không biết ở chỗ Đô Chưởng Man xảy ra chuyện gì, Lý Sâm phái người đi mặc dù là giám thị các nơi thổ ty, nhưng lại là khu vực có hai tộc cùng sinh sống. Kẻ đó lại chỉ hóa trang thành thương nhân, đến đó nghe ngóng tin tức, cho nên đối với vấn đề giữa Đô Chưởng Man và người Hán và tình hình hiện tại cũng không biết gì nhiều.
Những nơi khác đều là rừng sâu núi thẳm, vách núi hiểm trở, sinh sống đều là những bộ lạc hoang dã, nếu người nơi khác cố ý xông bừa vào, cho dù không chết trong tay bọn họ thì cũng chết bởi chướng khí trong núi sâu hoặc chết đói khi bị lạc trong những cánh rừng lớn nguyên thủy rậm rạp.
Muốn phái mật thám vào đó tìm hiểu người khác, không khác gì chuyện hoang tưởng. Những nơi rừng thiêng nước độc như vậy, nếu phái mười vạn đại quân đi vào, trong thời gian một tháng, không cần chiến đấu quân số cũng giảm hơn một nửa, những người còn sống sức chiến đâu cũng không còn được mấy phần, hơn nữa địa thế hiểm trở cũng không có chỗ nào đủ để tám trăm người tập trung dàn trận chiến đấu, những ưu thế tác chiến của binh lính Đại Minh căn bản là không thể phát huy được.
Dương Lăng sau khi nghe đến những xung đột bình thường của các bộ tộc, không hề cảm thấy hứng thú. Hắn nói:
- Thủ hạ của ngươi mang từ kinh đến Tứ Xuyên đều phái hết đi Tự Châu đi, giống như Thục vương, phải giám sát chặt chẽ nhất cử nhất động của thế tử Chu Nhượng Hù. Phải để ý cẩn thận hắn có phải chỉ lấy danh nghĩa đi điều giải xung đột, trấn an thổ ty, để câu kết với Đô Chưởng Man muốn tạo phản.
Liễu Bưu lo lắng nói:
- Đại nhân, hiện tại đám người này đều được ta phái đến khu vực xung quanh hành dinh khâm sai, trong các quán trà tửu lâu, đều là những tai mắt nhanh nhẹn. Nếu phái bọn họ đi, ti chức liền biến thành kẻ điếc người mù, đại nhân nếu có xảy ra chuyện gì, ti chức tuy là chết ngàn lần cũng khó chuộc tội.
Dương Lăng cười cười nói:
- Chú ý cẩn thận cũng không có nghĩa là sẽ không xảy ra chuyện gì. Người của ngươi cứ phái đi. Ngày mai tiếp Thục vương xong, ta sẽ luôn ở nơi này, không có việc gì sẽ không ra ngoài. Thục vương nếu muốn điều binh bắt ta, ba ngàn binh mã trong tay ta bây giờ căn bản cũng không bảo vệ được an toàn của ta, cũng đâu có khác gì.
Nếu như ông ta phái thích khách đến, trong tay ta chỉ cần ba trăm thân binh cũng đủ để bảo hộ ta toàn vẹn. Đám người của ngươi có ưu thế là người đất Thục, có thể dó xét ra tin tức nơi ta muốn, nếu không tìm được gì, chỉ vì an toàn bản thân, ta chỉ cần trực tiếp đi nhanh qua Tứ Xuyên đến Thiểm Tây là được rồi, cần gì phải đến thành đô?
Liễu Bưu không biết nói sao, đành phải nhận mệnh:
- Vâng, như vậy... đợi ngày mai sau khi đại nhân tiếp Thục vương xong, ti chức liền lập tức phái người đi Tự Châu.
Thanh Dương cung nằm ở ngoại ô phía tây thành đô, thờ trong điện là ba bức tượng Nguyên Thủ thiên tôn, Linh Bảo thiên tôn, Đạo Đức thiên tôn cao tới chín mét, chính là điện thờ hạng nhất cả nước. Thanh Dương cung trước tên là Thanh Dương tứ, nghe nói Thái Thượng lão quân thực sự từng đến đây diễn pháp truyền đạo.
Dương Lăng cùng đám người Bố Chính Sứ An Văn Đào, Án Sát Sứ Lục Chính, Chỉ Huy Sứ Lý Sâm đi vào Thanh Dương cung, theo sau là đám quan viên lớn nhỏ ở thành đô.
Trước cửa Thanh Dương cung có thổ thần, tượng Thạnh Long, Bạch Hổ, còn có cọc Thất tinh, bên trên có khắc thiên thư vân triện của đạo giáo bí truyền. Dựa vào sắp xếp của Thất Tinh Bắc Đẩu, gọi là cọc Thất Tinh Bắc Đẩu. Ngoài ra còn có cọc long phượng, một đôi sư tử đá và một cái giếng long vương...
Thục vương ở khu vực hậu viện tĩnh dưỡng, khách hành hương đi xa nhất cũng chỉ có thể đi đến cung Đấu mỗ là không được phép đi tiếp. Hôm nay khâm sai tới nơi này, cửa chính cũng được đóng kín, không cho khách hành hương tiến vào, cho đến khi Dương Lăng tới nơi mới mở cửa chính đón chúng quan viên tiến vào.
Cho nên khi Dương Lăng đi vào Thanh Dương cung, cả một đạo quan to lớn chìm trong thanh tĩnh, chỉ có quản chủ nơi này là Càn Nguyên đạo nhân dẫn theo đám đệ tử xếp hàng chờ đón. Gặp mặt nói chuyện vài câu, Càn Nguyên đạo nhân liền cùng khâm sai đi tiếp vào trong, vừa đi vừa giới thiệu sơ qua lịch sử nơi này, sắc mặt lộ ra vẻ tự hào về đạo quan này.
Mọi người đi qua điện Tam Thanh, điện Hỗn Nguyên để đi vào hậu điện. Nơi này thờ cúng chính là Từ Hàng chân nhân, là một đại sĩ Quan Âm trong Phật giáo. Nghe nói bà vốn thuộc một đạo giáo trong thập nhị kim tiên, nhưng đãi ngộ không tốt cho nên mới bỏ đi tới làm môn hạ cho Phật tổ ở Linh Sơn. Càn Nguyên đạo nhân lời nói to nhỏ không rõ, Dương Lăng cũng chỉ nghe thoang thoáng, cũng không hỏi thêm.
Đi qua Đấu Mỗ điện, liền tiến vào hậu uyển tam đài, Càn Nguyên đạo nhân liền chắp tay thi lễ nói:
- Thục vương điện hạ lúc này đang thanh tu, để tránh quấy rầy đến vương gia nên nơi này đã bị cấm vào, bần đạo và các đệ tử không tiện tiến vào, mời khâm sai đại nhân đi tiếp.
Dương Lăng dừng chân cười nói:
- Đa tạ chân nhân trên đường đã dẫn dắt giảng giải.
Lúc này Chu Nhượng Cận một thêm trường bào màu đen, mang theo hai tiểu hoàng môn bước đến đón chào, vừa thấy Dương Lăng cũng không lộ ra thần sắc đã sớm quen biết, thản nhiên nói:
- Nhượng Cận cung nghênh khâm Uy Võ Hầu gia, phụ vương đang ở trong tĩnh thất, mời Hầu gia.
Cả hai trong lòng tự biết nhau, Dương Lăng cũng không vạch trần y, lại cười nói:
- Bản hầu đến chậm. Làm phiền Nhị vương tử rồi!
Chu Nhượng Cận gọi hắn là Hầu gia, Dương Lăng hiểu được dụng ý của y, trong lòng thầm khen một tiếng, cũng lập tức sửa miệng, không xưng quan chức mà tự xưng tước vị, hai người trong lòng hiểu rõ, lại nhìn nhau cười, rất có cảm giác thông cảm lẫn nhau.
Dương Lăng tuy là khâm sai, cũng chính là thần tử của Đại Minh. Thục vương địa vị tôn quý, không có lý nào lại phải bái phỏng hắn. Nhưng hôm qua ở tiệc rượu, Dương Lăng đã nói Hoàng thượng dặn dò hắn đến thăm Thục vương, như vậy hôm nay hắn đến chính là dưới danh nghĩ khẩu dụ của hoàng thượng rồi.
Hắn nếu như dùng thân phận khâm sai mà đến, chẳng khác nào thay mặt Hoàng thượng tới thăm. Thục vương trước mặt hắn thi lễ bái tạ, cảm mộc hoàng ân, hiện tại hai người kẻ đối người đáp thay đổi thân phận, căn bản không đề cập đến chuyện khâm sai tới đây là phục mệnh thánh thượng. Hầu gia bái kiến Vương gia, có thể giảm đi rất nhiều lễ tiết quy củ.
Thục vương là ngươi coi trọng pháp tắc, tuy rằng bệnh thể suy yếu, nhưng vẫn cố gắng gượng xuống giường chào hỏi. Dương Lăng vội vàng ngăn lại, căn bản không đề cập đến chuyện phụng chỉ hoàng thượng, chỉ nói bản hầu gia nghe nói vương gia không khỏe cho nên tới thăm. Thục vương cũng không gặng gượng thêm, trở về giường, sắc mặt cũng hơi sáng lên, biểu lộ hài lòng với xử sự thấu tình đạt lý của Dương Lăng.
Hôm nay bệnh tình của Chu Tân Hàn trở nên xấu hơn so với hôm qua, tứ chi mệt mỏi, tâm hư khí xúc, cũng không phải vì Dương Lăng đến mà giả bộ. Ông ta gặp được vị cận thần của thiên tử khiêm tốn như vậy, tâm trạng tốt lên rất nhiều, dựa giường cười nói:
- Uy Võ Hầu lần này rời kinh, tuần tra đông nam, chiến công hiển hách. Bản vương nghe nói, ngươi ở phía tây, đang đẩy mạnh phát triển những cây giống Nam Dương. Nghe nói những loài này sức sống bền bỉ, sản lượng cao, thật không?
- Vâng, đã thử trồng ở Thiểm Tây, Hồ Nam kinh sư và những nơi khác. Kết quả thu được hiện tại cho thấy những loài cây này thu hoạch cao hơn nhiều so với những giống cây truyền thống, tuy rằng hương vị không được ngon như lúa mạch, nhưng lại chịu được đất cát cằn cỗi không cần gieo trồng ở những vùng đất màu mỡ, có thể làm lương thực dự trữ.
Dương Lăng vừa nói vừa dò đoán sắc mặt và lời nói của ông. Chu Tân Hàn trong đôi mắt mệt mỏi vẫn còn mang vẻ ung dung của kẻ bề trên, thần sắc thản nhiên, không mừng không giận. Khi nhìn ông ta, tự nhiên có loại cảm giác ưu việt bình tĩnh chỉ có ở hoàng tộc. Ánh mắt cực kỳ bình thản, vẻ mặt, cử chỉ không hề lộ một chút khác thường nào.
Dương Lăng trong lòng chợt nảy lên: "Ta đến Tứ Xuyên rất có thể mục đích chính là Thục vương, đây là đại sự khẩn cấp. Chu Nhượng Cận đã biết tin này, Thục vương cũng không có lý nào lại không biết. Ông ta vì sao có thể bình tĩnh tự nhiên như vậy?".
Nếu là một người tu tâm dưỡng tính tốt, nếu thực sự là kẻ trong sạch, nghe nói đến tin tức này, lại gặp được khâm sai, ông chắc chắn trong lúc vô ý sẽ lộ ra chút phẫn uất, tìm cách thanh minh chính mình mới phải. Nếu như thực sự nói trúng tim đen, dù ông ta giấu giếm thế nào, cũng làm sao có thể khí độ ung dung cẩn thận, vẻ mặt thái độ không có gì có thể nghi ngờ như vậy? Chẳng lẽ tâm cơ của ông ta kín đáo, tĩnh tại đến mức thành thần rồi sao?