Đã là trung tuần tháng mười một rồi, đã nhìn thấy được Kinh thành, khi còn cách mấy dặm nữa thì trời đổ tuyết lớn.
Một trận tuyết như lông ngỗng, tung bay lả tả, bồng bềnh lượn lờ, đây là trận tuyết đầu mùa đông, một trận tuyết lớn báo hiệu một năm được mùa. Không khí ẩm ướt mà ấm áp, bông tuyết lả tả rơi xuống đất rồi tan ra, đọng thành một vệt ướt, dần dần hóa thành một màu sắc thắm, cho đến khi hoa tuyết phía trên không hòa tan được nữa, khắp nơi trắng xóa một mảnh.
Đỉnh mũ, đầu vai, cung đao nơi eo của các chiến sĩ cũng đọng đầy hoa tuyết, dưới chân ẩm ước, nhưng bước chân của bọn họ vô cùng có lực, đón gió đạp tuyết tinh thần sáng láng, đại thắng trở về vinh quang thế nào chứ, trên dưới đại quân tràn đầy niềm vui được hồi hương và cảm xúc hưng phấn.
Khi còn cách thành ba mươi dặm, Dương Lăng phái một thám mã đi nghe ngóng động tĩnh phía trước, để tìm hiểu quy cách nghênh đón và đại thần được phái tới, để có chuẩn bị tâm lý từ sớm, để làm tốt việc hàn huyên và lễ nghi, không ngờ đại đội nhân mã đi đến chỗ cách hai mươi dặm rồi mà còn chưa thấy khoái mã về báo.
Trong lòng Dương Lăng tuy có kinh ngạc, có điều không suy nghĩ sâu. Hắn vén rèm xe lên tùy ý đưa mắt nhìn, hoa tuyết bay vào theo gió, tuy không lạnh lắm, khi chạm lên mặt thì hóa thành giọt nước, cảm giác mát lạnh thấm vào ruột gan, Dương Lăng vội vàng buông màn xuống, có điều đã hít được đầy không khí mát lạnh mang theo vị ngọt rồi.
Dương Lăng nhẹ nhàng lau mặt, lập tức muốn về nhà, cách nhà gần rồi, trong lòng liền cảm thấy an tâm. Trong đầu ngoài trừ từng bóng dáng quen thuộc, thân thiết kia ra còn có một bóng dáng chỉ có trong tưởng tượng, chính là con gái nhỏ của hắn, đứa bé mà Tuyết Lý Mai sinh, nó vẫn chưa nhìn thấy cha đâu.
Hôm nay hồi kinh, hôm nay tuyết lớn, nó do Tuyết Nhi sinh ra, ừ...vậy tên là Dương Tuyết Nhi! Khóe miệng Dương Lăng lộ ra nụ cười ấm áp. Đúng lúc này, ngoài xe có người kinh hô lên:
- Quốc Công, mau, mau mau, Hoàng...Hoàng thượng...
Dương Lăng ngẩn ngơ, lập tức cả kinh, vội vén rèm lên xông ra ngoài, hỏi:
- Hoàng thượng thế nào?
Một gã thị vệ trước xe chỉ về phía trước lắp bắp nói:
- Hoàng...Hoàng thượng...
Dương Lăng ngẩng đầu, gió thổi tuyết bay, mênh mang mờ mịt, trong màn tuyết mênh mông một đoàn nhân mã đi đến. Dương Lăng nâng người híp mắt nhìn qua, chỉ thấy nghi trượng đi trước nhất như rừng, ở giữa là tán che màu vàng, chính giữa là một cỗ kiệu cực lớn sáu mươi bốn người nâng. Dương Lăng không khỏi giật mình kinh hãi nói:
- Hoàng thượng!
Chính Đức Hoàng thượng đang ở cách hai mươi dặm, mạo hiểm tuyết lớn đầy trời mà đến đón hắn.
Dương Lăng vội vàng nhảy xuống xe, nhấc vạt bào chạy về phía trước. Ngự liễn phía trước cũng nhìn thấy đội quân của Dương Lăng, vừa mới dừng lại, vừa nhìn thấy Dương Lăng đến thì nghi trượng chi thành hai bên trái phải, các võ sĩ Kim Qua Cách nhường ra một con đường.
Dương Lăng vội vàng chạy đến trước ngự liễn, cất cao giọng hô:
- Thần, Dương Lăng, tham kiến Hoàng thượng!
Nói rồi, Dương Lăng phất vạt bào, quỳ trên nền đất trắng tuyết.
Nghi trượng hai bên là tướng quân cưỡi ngựa, phía sau là quan văn đang ngồi kiệu, ai ai cũng đều tiến lên, lẳng lặng nhìn hắn. Tuyết vẫn rơi xuống không tiếng động, hai cung nữ trước ngự liễn dùng móc vàng nâng màn kiệu lên.
Chính Đức Hoàng đế đầu đội mũ Dực Long, mặc một thân lon bào, mỉm cười từ trong đi ra, men theo bậc thân gỗ sơn son của ngự liễn mà đi xuống xe, nâng Dương Lăng dậy, vui vẻ nhìn hắn từ trên xuống dưới.
Hai người bốn tay nắm lấy nhau, vẻ mặt vui sướng, tuyết lớn kín kẽ dày đặc ở bên cạnh, phía trước hai người giống như cánh bướm phấp phới. Chính Đức cao giọng cười to, ra sức lắc cánh tay Dương Lăng, chỉ nói một câu:
- Đi, chúng ta trở về.
Chính Đức nói xong thì kéo tay Dương Lăng xoay người liền đi. Dương Lăng giật mình nói:
- Hoàng thượng!
- Lên liễn!
Chính Đức nói không do dự, kéo Dương Lăng sóng vai quay về ngực liễn, rèm vàng cứ thế mà kéo lên, khoát tay nói:
- Bãi giá hồi cung!
Đại đội nhân mã chuyển hướng tại chỗ, trùng trùng điệp điệp quay lại Kinh thành, ngự liễn ổn định mà đi về Kinh thành. Dương Lăng và Chính Đức sóng vai ngồi trên một chiếc long tháp phủ lớp gấm vàng, chỉ thấy hai người khoanh chân nói chuyện, thỉnh thoảng truyền ra mấy tiếng cười to. Các tướng quân ngồi trên lưng ngựa hai bên đều cực kỳ hâm mộ, nhưng lại không ai dám oán thầm chê trách.
Công lao mở mang bờ cõi là thứ mà ai cũng lập được sao? Nếu là bất cứ ai có thể đoạt lại bình nguyên Hà Sáo từ tay người Thát Đát, thì chính là kỳ công kiếp này, huống chi còn thuyết phục Đóa Nhan Tam Vệ, khiến cho đất Liêu Đông đều quy về Đại Minh, lấy được sơn mạch Kim Sơn từ trong tay người Ngõa Lạt, mở ra con đường thông đến Tây Vực, công tích như vậy còn có người thứ hai sao?
Văn võ toàn triều, hoàng thân quốc thích toàn bộ đều ra nghênh đón, Hoàng đến đích thân ra khỏi Kinh sư hai mươi dặm, kéo Uy Quốc Công ngồi chung ngự liễn hồi kinh, vinh hạnh đặc biệt như vậy, người ta xứng đáng. Nghi thức hoan nghênh vô cùng long trọng, tuyết lớn đầy trời, Cửu môn Kinh sư mở rộng, dân chúng toàn thành đón chào, Dương Lăng nở mày nở mặt về đến Kinh thành, đi thẳng đến Kim điện, truyền chỉ đặc biệt miễn quỳ trước vua, ban ngồi trong long đình.
Dương Lăng ngồi vào ghế, liếc mắt nhìn Tiêu Phương, Tiêu Phương khẽ gật một cái khó nhìn thấy được, Dương Lăng âm thầm yên lòng.
Muốn khai phá cương thổ cực bắc, nếu không phải tước vương, được hưởng quyền quyết định, dẫn quân độc lập thì không thể thành công, nhưng có binh bên ngoài, chính là đại kỵ của quân vương, cho nên Dương Lăng muốn làm từng bước một, bước đầu tiên chính là dựa vào công lao mà phong vương tước, bước thứ hai mới thuyết phục Hoàng đế.
Vương khác họ của Đại Minh chỉ có hai kết cục, một là ở lại trong kinh làm một Tiêu Dao Vương không có binh quyền, ví dụ như Từ Đạt; một loại là được phong đến vùng đất bát hoang trong mắt hoàng triều có thể không có giá trị gì cả, ví dụ như Mộc Anh.
Vấn đề là dựa theo tình cảm và sự nể trọng mà Hoàng đế đối với hắn thì quyết sẽ không để hắn đến nơi biên tái. Nếu người khác thay hắn xin phong, đồng nghĩa chuyện cổ động Hoàng đế trục xuất hắn. Phải biết rằng người của hoàng triều đa phần ngoài trừ bên trong không biết chuyện phiên ngoại ra thì trong mắt bọn họ, ngoài trừ biết được hai chữ Bắc Hải (Bối Gia Nhĩ Hồ) thông qua câu chuyện Tô Vũ chăn dê ra thì ấn tượng ở nơi đó chỉ là: rét lạnh, nghèo hoang, không dấu chân người, đất cằn sỏi đá.
Tóm lại, đó là nơi mà dã nhân và tội nhân mới ở, đừng nói là phong Vương gia, phong Hoàng đế cũng không đi, đi rồi thì ngáp gió tây bắc sao? Loại Hoàng đế này e rằng còn không bằng "Hoàng đế nước Đại Thuận" Triệu Vạn Hưng thống trị trên trăm người ở trấn Thắng Phương Bá Châu nữa, thế nhưng chính mình chủ động xin phong thì sao?
Chính vì ai ai cũng cho rằng đây là chuyện khổ sai, nên ai sẽ tin tưởng rằng hắn bỏ chức Vương gia yên vui con cháu đời đời hưởng phúc trong kinh không làm, lại chạy đi làm vua dã nhân chứ? Người này nhất định là trong lòng có dị tâm, ý đồ cấu kết người man tạo phản, e rằng ngay cả Hoàng đế cũng khó tránh có ý nghĩ này trong đầu, đây mới là chỗ khó không thể nào lấy được sự tin tưởng và thấu hiểu của Hoàng đế và văn võ toàn triều.
Trước khi Dương Lăng hồi kinh, từ lâu đã lén dặn Tiêu Phương sử dụng lực lượng có thể để bắt đầu hành động. Trước tiên để một Ngôn quan lục phẩm nho nhỏ thượng tấu liệt kê công trạng Dương Lăng mở mang bờ cõi, là công trạng trước nay chưa từng có, xin phong tước Vương, thử thăm dò phản ứng của văn võ cả triều, đợi khi thấy tiếng phản đối không lớn, lúc này mới xuất động quan viên chức vị khá cao thượng tấu.
Tiếng phản đối của bá quan thấp là vì công mà Dương Lăng lập thực sự là công tích mà các thần tử có công sau thời khai quốc không bao giờ lập được, hơn nữa công lao của hắn vốn đã đủ lớn rồi, nghĩ thêm chút nữa, ngoài trừ phong Vương thì thực sự cũng không còn cách nào khác.
Đương nhiên, quan trọng nhất chính là vị Hoàng đế trong lòng căn bản không giấu được chuyệ gì kia không có chút lòng dạ nào cả, bá quan còn chưa tỏ thái độ thì tự y đã nhảy cẫng lên phất cờ reo hò, vỗ tay khen hay rồi. Triều đình hiện nay...ngươi nói xem còn ai ăn no rửng mỡ mà đi quản nhàn sự này chứ?
Trước khi Dương Lăng hồi kinh cũng đã biết việc này, hỏi han Tiêu Phương chỉ là do lo lắng có sự thay đổi trong nhất thời nào đó. Quả nhiên sau khi Hoàng đến ca ngợi một phen thì Lễ Bộ Thượng thư Vương Hoa ho khan một tiếng, tiến lên một bước móc ra một tờ tấu trình, cất cao giọng đọc to.
Vừa vào tấu thì liệt kê đức của Hoàng thượng, công của Dương Lăng, cuối cùng còn trích dẫn chuyện trong sử sách có người lập công được phong Vương mà thỉnh cầu dựa theo công lao mà phong Uy Quốc Công làm Vương. Những thứ này đều là văn chương về mặt quan lại, văn võ cả triều đã biết từ lâu rồi, thế là bá quan lại ầm ầm quỳ gối, đồng thanh thỉnh phong!
Theo thông lệ Đại Minh, con Hoàng đế ban phong Thân vương, con Thân vương ban phong Quận Vương, người được phong Vương khác họ chỉ có hai công lao mới có thể có khả năng này, một là mở mang bờ cõi, hai là giải quyết khó khăn cứu nước, là người công lao cực cao. Cho dù là vậy, thì sáu Vương khác họ mà Chu Nguyên Chương phong, Trung Sơn Vương Từ Đạt, Khai Bình Vương Thường Ngộ Xuân, Kỳ Dương Vương Lý Văn Trung, Ninh Hà Vương Đặng Dũ, Đông Âu Vương Thang Hòa, Kiềm Ninh Vương Mộc Anh tước vị lúc sinh tiển vẫn là Quốc Công, sau khi chết mới truy phong là Vương gia.
Có điều đây không phải là vấn đề, bởi vì có thể phong Vương hay không đều do Hoàng đế định đoạt. Sở dĩ phong Vương khó khăn không phải do các thần tử không chịu, mà là Hoàng đế không muốn phong. Bằng không thì ban đầu khi Đại Minh khai quốc, bá quan ước gì phong thêm nhiều Vương gia khác họ hơn, cho dù bản thân mình không được phong Vương, nhưng ít nhất người chắn trước mặt tăng lên một bậc, thì tước vị của mình cũng có thể theo đó mà tăng lên, có ai mà ngu ngốc can trở chứ.
Đến thời kỳ này thì Quốc Công đã không chỉ là phong cho mấy vị thời khai quốc nữa, không nói là nhiều như lông trâu, nhưng ít nhất cũng không đáng tiền như thế nữa. Công tích bây giờ của Dương Lăng, phong Vương khi còn sống cũng là chuyện nên làm, thế là Hoàng đế tiếp nhận tấu trình, tuyên Dương Lăng tiếp chỉ, Uy Quốc Công thăng lên thành Vũ Uy Vương.
Trong lịch sử, Đại Minh đến thời mạt đại mới phong cho Tần Thân Vương Tôn Khả Vọng, Tấn Thân Vương Lý Định Quốc, Thục Thân Vương Lưu Văn Tú, Khánh Dương Quận Vương Phùng Song Lễ, Củng Xương Quận Vương Bạch Văn Tuyển, Hán Dương Quận Vương Mã Hán Trung, Diên Bình Quận Vương Trịnh Thành Công, bây giờ vì con bướm nhỏ xé không xuất thế Dương Lăng mà những Thân Vương, Quận Vương khác họ này r rằng không có cơ hội xuất hiện nữa, mà vị Vương khác họ đầu tiên của Đại Minh đã xuất hiện rồi.
Chính Đức mỉm cười đứng lên nói:
- Dương ái khanh, triều đình của trẫm có thể lấy về Hà Sáo, Đóa Nhan Tam Vệ, khai thác dải đất rộng lớn Kim Sơn, Ba Nhi Tư Khoát Sơn, thực sự là công lao tiền nhân không làm được. Ái khanh thăng làm tước Vương cũng là nguyện vọng của mọi người.
Trẫm, ban thưởng công chúa Vĩnh Phúc, công chúa Tương Nhi, muội muội Trương Thiên Sư Trương Phù Bảo làm thê tử khanh, đều phong Vương phi. Khâm Thiên Giám đã chọn được mùng ba tháng ba sag năm là ngày thích hợp, khi đó trẫm đích thân tự mình chủ hôn, hoàn thành hôn sự cho ái khanh.
Dương Lăng ngẩn ngơ, hai vị công chúa gả đi là chuyện đã biết từ sớm, sao lại nhiều hơn Tiểu Phù Bảo chứ, lẽ nào nàng đã nói chuyện mình cưỡng hôn nàng ở đan phòng nói cho Hoàng thượng biết? Trong lòng Dương Lăng giật thót, nhưng trước mặt văn võ toàn triều không dám hỏi nhiều, liền vội vàng lĩnh chỉ tạ ơn.
Chính Đức lại cười nói:
- Ba ngày sau, bát tự, hôn thư và nữ trang của hai vị công chúa và Trương Phù Bảo cô nương sẽ đưa đến Vương phủ. Ái khanh cũng trở về phủ đi, chuẩn bị thật tốt ba phần sính lễ, tiền cưới nồng hậu, làm náo nhiệt một chút.
Dương Lăng lên tiếng đáp lời, Chính Đức lại nói:
- Chư vị ái khanh, triều đình ta mở mang bờ cõi, lập được công mà tiền triều không có. Trong lòng trẫm rất vui mừng. Trẫm đã tế bái Thái Miếu, ít ngày nữa còn lên Thái Sơn, lập đàn tế trời. Nội Các, Lễ Bộ thương nghị chuyện nghi lễ liên quan và quan viên văn võ, mệnh phụ nội ngoại, sứ thần các nước đi theo. Khâm thử!
Hoàng thượng muốn lập đàn? Chúng văn võ đều ngẩn ngơ.
Từ sau thời Đường Trung Diệp, Hoàng đế lập đàn ở Thái Sơn, Chính Đức coi như là người đầu tiên!
Công chúa gả đi, đối với Lễ Bộ, Nội Vụ mà nói, cả quá trình lễ nghi không thể quen thuộc hơn được nữa, nhưng lần này lại khác, bởi vì người mà công chúa gả là Vương gia, không thể theo lệ ở trong Thập Vương Phủ được. Đám quan viên lễ nghi phải vắt hết óc mới chế định được một nghi lễ đại hôn khác với trước kia.
Hơn nữa Hoàng thượng đột nhiên thình lình suy nghĩ khác thường mà muốn lập đàn ở Thái Sơn, càng làm bọn họ trở tay không kịp. Từ sau Đường Trung Diệp thì đã không còn cử hành lập đàn nữa, bọn họ lật xem rất nhiều cổ tịch, nghiên cứu chuyện Tần Hoàng Hán Vũ Đường Huyền Tông lập đàn ngày trước, định ra nghi lễ lập đàn liên quan.
Quan viên Lễ Bộ bận đến sứt đầu mẻ trán, công chúa gả cho Vương gia vốn là chuyện mới mẻ, hơn nữa là hai vị công chúa gả cho một phu quân, hơn nữa công chúa gả cho Vương gia, từ xưa đến nay thực sự không nhiều lắm. Thời triều Đường tuy có chuyện một vị Phò mã cưới hai công chúa, nhưng đó là khi một vị công chúa sau khi qua cửa thì bệnh chết, cho nên mới tiếp tục nghênh cưới vị công chúa thứ hai. Đồng thời xuất giá có thể tính là chuyện thượng cổ vậy.
Các quan viên nghiên cứu tới nghiên cứu lui, trước sau cũng không nghiên cứu ra được phương án, liền nhao nhao mời Vương Hoa. Vương Hoa cũng không có ý gì, liền đi hỏi ý của Hoàng thượng. Lúc này, Đường Nhất Tiên đã mang thai, Chính Đức Hoàng đế cả ngày đều mặt mày hớn hở, hơn nữa còn vui vì Đại Minh mở mang bờ cõi, mấy ngày nay tâm tình cực kỳ tốt.
Vương Hoa còn chưa nói xong thì y liền vung tay nói:
- Hai ngự muội của trẫm xuất giá, đương nhiên là khác với trước kia. Hơn nữa người mà các nàng gả là Vương gia, đây càng là chuyện trước đó chưa từng có, làm hai phần cho trẫm. Cho dù là nghi thức, nữ trang, tất cả đều hai phần! Đi làm đi! Này, quay lại, không thể dễ dàng cho hắn được, nói với Dương Lăng, sính lễ, tiền cưới của hắn cũng phải đưa hai phần.
Chính Đức nói xong liền vội vội vàng vàng đi tản bộ cùng Đường Quý phi. Vương Hoa dở khóc dở cười, quay lại phủ Thượng thư thông suốt suy nghĩ, lúc này mới phân phó xuống, làm theo ý của Chính Đức, tất thảy gấp đôi.
Lần này thì loạn thành một đoàn, nghi thức nữ trang của hai vị công chúa toàn bộ tăng lên gấp đôi, liền biến thành bốn bộ. Mà đồ mà Thục Vương phủ mang đến càng nhiều, Thục Vương phú giáp thiên hạ, muội muội ruột xuất giá còn không thể tặng lễ vật thật tốt một phen sao? Huống chi thân phận của đối phương cũng không phải nghi tân bình thường.
Ngoài ra muội tử được Thái hậu nhận là con gái, con gái ruột của Thái hậu xuất giá, Chu Nhượng Hủ y sao không biết xấu hổ mà không tặng một phần chứ? Cho nên phần mà y chuẩn bị cho công chúa Vĩnh Phúc còn nhiều hơn cả Tương Nhi. Lần này chỉ tính riêng nữ trang thôi thì đã chiếm mất sáu ngạch của công chúa rồi.
Đó là khái niệm gì? Chính là đến ngày đưa sính lễ ba ngày sau, nghi trượng trùng trùng điệp điệp, bốn phần nghi trượng, sáu phần nữ trang, dẫn đến sau đó là trước không nhìn thấy cuối sau không nhìn thấy đuôi, nghi trượng phía trước đã đến Vương phủ Uy Vũ ở ngoại ô phía tây rồi, mà xe ngựa phía sau còn đang lắc lư trên đường lớn trong Kinh sư.
Trương Thiên Sư không lẫn lộn với hai vị công chúa, phô trương hơn người ta thì không hay, kém người ta thì keo kiệt, chi bằng tách ra mà xử lý, cho nên buổi sáng hoàng gia vừa đưa đồ cưới thì Trương Thiên Sư đã bắt tay chuẩn bị rồi. Tới giữa trưa thì Trương gia mới bắt đầu đưa nữ trang đến Vương phủ. Trương gia cũng có danh có tiếng, những món nữ trang kia thì không cần nhắc, chỉ là khách mời thôi thì đủ coi rồi.
Hoàng đế gả muội thì chọn những người còn đủ song thân, phu thê, con cháu đi theo nghi trượng. Trương Thiên Sư lại phát ra "Anh hùng thiếp", mời các giáo phái ra mặt đến dự.
Bây giờ Trương Thiên Sư chính là hồng nhân trong mắt Hoàng thượng. Tiêu diệt Ninh Vương là y đã lập được công lớn, Đường Quý Phi mang thai, hoàng tự đế quốc Đại Minh có người kế thừa, cũng tốn nhiều công Thiên Sư diệu thủ hồi xuân. Bây giờ Hoàng thượng vô cùng tin sủng y, thử hỏi ai mà không nể mặt chứ?
Trong lúc nhất thời, hòa thượng, đạo sĩ, ni cô, đạo cô, lạt ma, a bặc, cộng thêm cha sứ Tây Dương đi đầy đường! May mà bọn họ không mang theo pháp khí, bằng không, kẻ biết thì là Thiên Sư gả muội, kẻ không biết còn cho rằng nhà ai đưa tang nữa.
Trong ngoài thành nói nhiệt cực kỳ, còn thịnh vượng hơn cả dịp tết, trong thư phòng hậu viện Dương gia lại vô cùng yên tĩnh. Lúc này, Dương Lăng vừa mới theo một người chậm rãi đi về phòng giữa. Người nọ mặc áo bông cưỡi ngựa màu da trời, áo khoác chống gió, giữa eo thấp thoáng lộ ra chuôi đao đeo vòng màu vàng đồng sáng chói, vừa trẻ tuổi lại dũng mãnh, giống như một thị vệ cao cấp.
Dương Lăng mặt một chiếc áo khoác da cáo màu cà, đầu đội mũ ấm da hải long, đi đến dưới hành lang ngoài phòng giữa thì dừng bước dặn dò gã:
- Tốt, sau khi trở về thì nói với Thục Vương điện hạ, chuyện này đừng lộ ra, bản vương tự có chủ trương.
Người nọ khom người nói:
- Dạ, xin Vương gia dừng bước, tiểu nhân quay về Tứ Xuyên đây.
Nói rồi chắp tay vái một cái, xoay người đi xuống thềm đá, một gia bộc vội vàng đưa gã đi lấy ngựa.
- Lão gia, đồ cưới của phủ Thiên Sư đến rồi, ngài nên đi nghênh đón.
Cao Văn Tâm tươi cười tự nhiên từ ngoài đi tới. Trên đầu nàng đội một chiếc nón Chiêu Quân giữ ấm phủ trán, mặc áo lông da cáo đen, chân mang đôi giày da hươu nhỏ, bên ngoài khoác áo choàng thuê một chú chuột xám bằng đá xanh, nước thu sóng sánh, hoa dung tú lệ, thật sự xinh đẹp động lòng người.
Vốn dĩ dáng người Cao Văn Tâm cao gầy, khi mặc bộ đồ này đạp tuyết đi đến thì thân hình uyển chuyển, cao quý ung dung, giống như thần tiên trong đám người vậy!
- Ừ!
Dương Lăng mỉm cười cầm lấy bàn tay nhỏ ấm áp của nàng, dịu dàng nói:
- Ấu Nương đang xử lý ở đó phải không? Vẫn nên mang đến phủ Uy Vũ Vương ở đối diện đi. Những thứ lễ nghi rườm rà này nàng quen thuộc hơn ta nhiều, đi, mau cùng lão gia đi gặp Thiên Sư.
- Được.
Cao Văn Tâm cười nói tự nhiên, thướt tha xinh đẹp đi theo phu quân.
Dương Lăng bước ra cửa phủ, hít vào một hơi thật dài, lòng bàn tay cuộn lại, cuốn lá mật thư thành một cuộn giấy, lặng lẽ bỏ vào trong tay áo của hắn.
- Tiểu Kim Xuyên Ô Tư Thổ ty người Tạng Thác Bạt Vũ?
Sau khi Chính Đức Hoàng thượng nhìn thấy Dương Lăng thì vẻ tươi cười trên mặt biến mất.
- Đúng vậy, chuyện này làm không chút kẽ hở nào, phía Tứ Xuyên tiêu tốn rất nhiều nhân lực vật lực cũng không tra ra gốc rễ. May mà một hộ mục dân người Ô Tư đắc tội Thổ ty, chạy ra khỏi Tiểu Kim Xuyên rồi không còn nơi sống yên ổn, lúc này mới thèm nhỏ dãi tiền thưởng của triều đình, lặng lẽ tiết lộ việc này. Thục Vương điện hạ kiểm chứng xác thực, lúc này mới cho người vào kinh.
Chính Đức giận đến tái mặt, bước đi thong thả vài bước trong điện, ne6ng tay áo chỉ ra nói:
- Đỗ Phủ, nhanh chóng tuyên Cẩm Y Vệ Mưu Bân, Lục Bộ Lục Hoàn...
- Chậm đã! Hoàng thượng, ngài định làm gì vậy?
Chính Đức lạnh lùng cười nói:
- Tiên lễ hậu binh. Để Cẩm Y Vệ bắt người, thành thành thật thật giao ra toàn bộ hung thủ, chịu sự trừng phạt của triều đình thì bỏ qua, bằng không, xung đột vũ trang.
Dương Lăng lắc đầu, nói:
- Hoàng thượng, Thục Vương điện hạ tra ra hung thủ, vì sao không chính thức trình báo triều đình, mà lại lặng lẽ đưa tin tức cho thần, để thần mật tấu với Hoàng thượng chứ? Chính là vì không muốn lộ phong thanh. Mưu hại Khâm sai tương đương với tạo phản, việc này vi phạm tôn nghiêm của triều đình ta, chắc chắn phải nghiêm trị, một khi thông qua lớp lớp quan phủ mà trình báo thì Hoàng thượng muốn tạm thời binh ổn chuyện này cũng không thể được.
Chính Đức cau mày một cái, ngạc nhiên nói:
- Dương khanh có ý gì? Tại sao phải nhẫn nhịn?
Dương Lăng nói:
- Hoàng thượng, mưu hại Khâm sai tương đương với đại tội mưu phản, cho dù Thác Bạt Vũ khi mới bắt đầu không biết nội tình, năm trăm dũng sĩ nhận lệnh rời khỏi bộ lạc rồi lại mang theo thi thể Thác Bạt Yên Nhiên về, ông ta sẽ không hỏi tới sao? Nhưng ông ta vẫn luôn nhẫn nhịn không báo, chính là khi quân. Ngài nghĩ xem, ông ta chịu bó tay chịu trói sao?
- Đánh, chúng ta đương nhiên không sợ, chỉ có chúng ta công, bọn họ thủ mà thôi. Nhưng vấn đề là, tình thế của Tiểu Kim Xuyên vô cùng hiểm trở, một khi dụng binh thì tất nhiên cần phải xuất động đại quân tốn nhiều thời gian. Nếu đột nhiên đánh lén, không nói đến đó là khu vực của người Tạng Ô Tư, một khi động binh mã thì tin tức sẽ sớm truyền ra, căn bản không thể nào bảo mật, hơn nữa Thác bạt Yên Nhiên gây ra chuyện lớn như vậy, Thác Bạt Vũ sao có thể không đề phòng chứ.
Chính Đức cao giọng cười to nói:
- Ái khanh làm việc thật thích nhìn trước ngó sau, việc này chính là miệt thị quyền uy của triều đình, không giống như việc nhỏ tầm thường, cho dù phải trả cái giá lớn hơn nữa thì trẫm cũng phải khiến ông ta cúi đầu nhận tội.
- Hoàng thượng, nếu có biện pháp chỉ trả cái giá cực thấp mà có thể khiến Thác Bạt Vũ cúi đầu nhận tội chịu xử phạt thì sao phải hao tài tốn của chứ?
Chính Đức giật mình, vội hỏi:
- Ý của ái khanh là?
Dương Lăng nói:
- Trước kia, chúng ta điều binh từ Thiểm Tây, Tứ Xuyên, ngàn dặm xa xôi chinh phạt Cáp Mật, đến nơi rồi nhưng lương thảo không kịp tiếp tế, chúng sĩ tốt người ngựa kiệt sức, Cáp Mật Vương lại chiếm cứ nơi hiểm yếu, nhiều lần không thể tấn công được. Lần này chúng ta nên thay đổi chiến lược, mau chóng tiếp nhận Kim Sơn, Ba Nhĩ Tư Khoát Sơn, ổn định phương bắc. Năm sau chiếm được địa lợi, hai đường núi Ba Thục, Ba Nhĩ Tư Khoát Sơn, lại phát động tiến công Cáp Mật Vệ mà Cáp Mật Vương chiếm cứ của chúng ta, Cáp Mật Vương hai mặt thụ địch, thu lại Cáp Mật Vệ dễ như trở bàn tay. Khi hồi binh thì bất ngờ chiếm lấy Tiểu Kim Xuyên, Thác Bạt Vũ tất nhiên không đề phòng được.
Như vậy, chúng ta chỉ cần trả cái giá rất nhỏ, đó là thứ nhất. Thứ hai, bây giờ chúng ta nhận được tin tức của Kim Sơn, Ba Nhĩ Tư Khoát Sơn, hẳn là vẫn chưa truyền đến Tây Vực. Các nước Tây Vực một khi nhận được tin tức, tất nhiên sẽ nghĩ đến an nguy của bản thân bọn họ, chí ít Cáp Mật Vương chiếm Cáp Mật Vệ của ta, người Ô Tư Tạng chiếm được địa khu Đô Ti Đóa Cam của ta sẽ thấp thỏm bất an.
Một khi chúng ta xảy ra chiến sự với Tiểu Kim Xuyên bây giờ, bọn họ có thừa cơ sinh sự hay không? Hoặc là ủng hộ Thác Bạt Vũ, hoặc là tham dự phản loạn, hoặc là thừa cơ chiếm cứ Kim Sơn và Ba Nhĩ Tư Khoát Sơn mà người Ngõa Lạt đã rút đi? Hoàng thượng, quân tử báo thù, mười năm chưa muộn. Nếu phải trả cái giá đánh mất lãnh thổ, đồng thời mang đến tai họa lớn hơn cho dân chúng thì không phải là lúc thích hợp để cưỡng chế xuất binh, vậy chẳng phải là vì nhỏ bỏ lớn sao?
Chính Đức trầm ngâm thật lâu, lạnh lùng cười nói:
- Được! Vậy thì để cho ông ta tiêu dao thêm một năm, đợi khi Đại Minh thu hồi Cáp Mật Vệ thì thuận tay mang con sói ông ta bắt về luôn cho trẫm.
Dương Lăng khẽ gật đầu, kịp thời nghĩ ra trước mắt chính là một cơ hội, liền lo lắng bất an nói:
- Hoàng thượng, thần...còn một việc muốn bẩm báo Hoàng thượng, nhưng suy trước tính sau, luôn cảm thấy không biết làm sao mở miệng.
- Này, quân thần chúng ta, biết thì phải nói, nói thì phải hết, có gì cứ nói.
Chính Đức giãn mặt cười nói.
Dân chúng Kinh sư đối với chuyện phong Vương khác họ, Hoàng đế và Thiên Sư gả muội muội vừa mới bàn luận say sưa không bao lâu thì lại có một đề tài bàn tán sau bữa cơm nữa rồi. Trong lịch sử Vương gia Dương Lăng có thời gian ngắn ngủi nhất chỉ thăng chức có ba ngày thì đã bị lột bỏ tước Vương, phế truất một cấp, hạ lệnh đóng cửa suy nghĩ, đồng thời phái Cẩm Y Vệ trông giữ, thật ra cũng giống như bị cấm cửa vậy.
Thiên tử tức giận, Vĩnh Phúc và Tương Nhi đang lòng đầy vui vẻ mà chờ làm tân nương nhiều lần cầu kiến hoàng huynh không có kết quả. Vốn dĩ Thái hậu rất không vui chuyện hai vị công chúa cùng gả một chồng, nhưng chuyện đã đến nước này, lại không thể không ra mặt hòa giải, thế nhưng chọc cho Chính Đức Hoàng đế tính tình như con lừa bướng bỉnh dứt khoát tự mình đóng cửa trong phòng, ngay cả Thái hậu cũng không gặp.
Trong nhất thời lời đồn nổi lên bốn phía trong Kinh sư, các phiên bản câu chuyện quân thần bất hòa truyền đến mức có chứng có cứ, tỷ như Dương Lăng say rượu, lại dám to gan khoe khoang công lao cái thế, Hoàng thượng nên nhường lại ngôi vị Hoàng đề. Lại tỷ như Dương Lăng say rượu, không ngờ lại yêu cầu Hoàng thượng gả luôn tiểu công chúa Vĩnh Thuần qua cửa, lại tỷ như Dương Lăng say rượu...
Tóm lại, tất cả các phiên bản đều có một điểm chung duy nhất, chính là Dương Lăng uống rượu say, đây chính là căn bản để những câu chuyện này có thể khiến người ta tin tưởng và lưu truyền. Bởi vì một cận thần Hoàng thượng tin sủng lập được công lao như vậy, lại được Hoàng thượng gạt bỏ nghị luận mà phong cho tước Vương, nếu không phải là say rượu nói ra những lời đại nghịch bất đạo thì sao có thể đột nhiên trở thành một kẻ áo vải sau khi tiếp nhận hôn thư của công chúa chứ, thậm chí có khả năng trở thành tù nhân nữa?
Theo như đồn đãi thì cô em vợ công chúa Vĩnh Thuần bị Dương sắc lang ngấp nghé thành người rất bận rộn, thường xuyên qua lại giữa Hoàng cung, báo phòng, giống như một con bồ câu đưa thư mà nhanh nhẹn qua lại, có điều cũng chỉ là bận rộn một phen mà thôi, sự tình không chút tiến triển nào.
Dương Lăng bị giam lỏng hai ngày, Hoàng đế cũng bãi triều hai ngày, triều dã nghị luận xôn xao. Quân thần hai người rốt cuộc đã nói gì thì ngoài trừ hai đương sự ra thì chỉ có một mình Đỗ Phủ biết thôi. Dương phủ đã bị Cẩm Y Vệ bao vây trùng trùng, bất cứ ai cũng không được ra vào, ba Đại học sĩ cũng vô kế khả thi, liền tìm cách thu mua thị vệ Nội đình, mời được Đỗ Phủ ra, không ngờ là Đỗ Phủ giống như ăn thuốc câm vậy, nhìn thấy ba vị Đại học sĩ thì chỉ vái dài, hỏi gì cũng không trả lời.
Đám Đại học sĩ, Lục Bộ Cửu Khanh đều tụ lại một chỗ thở dài than ngắn, không rõ ràng cho lắm. Xét theo ý Hoàng thượng thì thay vì nói là nổi trận lôi đình, thì chẳng qua chỉ như một tiểu hài tử kiêu căng quen thói đột nhiên chịu uất ức, đóng cửa phòng lại, không chịu gặp toàn bộ ngoại cậu cha mẹ vân vân, tự mình trốn trong phòng trút giận.
Nói như vậy thì ngược lại Dương Lăng cũng không cần lo lắng tính mạng, nhưng rốt cuộc giữa hai người đã xảy ra chuyện gì thì không ai rõ ràng cả, cũng không thể nào hóa giải được. Nhưng cứ tiếp tục như vậy cũng không phải là cách, Hoàng thượng không xử lý quốc sự không được, thần tử lập được công to cho triều đình, vừa được phong Vương gia không chịu bất kỳ tội danh nào mà bị giam lỏng như vậy cũng không được nha.
Các đại thần đang tụ lại trong triều phòng hết đường xoay xở, thì Tiêu Phương bộ râu sắp không vuốt được nữa bỗng nhiên vỗ đùi, kêu lên:
- Ai nha, sao lại quên mất nàng chứ, muốn tháo nút thắt này, không phải nàng thì không được mà!
Chúng văn võ vừa nghe thì phần phật lao tới, mồm năm miệng mười kêu lên:
- Ai? Là ai? Các Lão nói mau, không thể cứ tiếp tục như vậy được, rốt cuộc là ai có cách hả?
Tiêu Các lão đảo mắt, nói:
- Còn ai chứ? Muội muội Dương Lăng, đương kim Hoàng quý phi Đường Nhất Tiên a!
Vương Hoa vỗ tráng:
- Còn không phải sao, quốc mẫu tương lain ha, nếu nàng không biết ngọn nguồn, không hóa giải được việc này thì còn ai có thể làm được chứ?
Một đám đại thần người chồng chén trà thì chồng chén trà, người chỉnh mũ quan thì chỉnh mũ quan, còn có một vài đại thần trượt xuống khỏi giường sưởi tự tìm giày quan của mình, có người vội vàng đã chạy ra bên ngoài, trong triều phòng loạn lên.
Tiêu Phương hô:
- Này này này, các ngươi đi làm gì? Bây giờ Hoàng thượng đang tức giận, các người vào được Báo Phòng sao? Các ngươi nhìn thấy được Quý phi nương nương sao? Đều đang bận rộn cái gì chứ hả. Nhanh lên, mau gọi tiểu nội thị lại, trước tiên truyền tin tức cho công chúa Vĩnh Thuần, nói là chư công Nội Các, Lục Bộ Cửu Khanh cầu kiến công chúa Vĩnh Thuần điện hạ!