Lúc này, chúng ta chỉ có thể hình dung tâm tình của Trương Dần bằng câu không biết nên khóc hay nên cười. Vì sao đúng vào lúc này đại quân của Bá Nhan lại trốn về quan ải? Kế hoạch ám sát hoàng đế Đại Minh đã thành công rồi hay sao?
Bất kể thế nào đi nữa, muốn tiếp tục ẩn giấu trước mắt bao người thì mình cũng chỉ có thể cố gắng ngăn chặn đại quân của Bá Nhan lại. Nếu như Hoàng đế còn sống thì Bá Nhan chẳng qua chỉ là một con chó săn đã không còn giá trị sử dụng giống như Dương Hổ, đội quân của hắn bị tống lên thiên đình chính là đại công của mình, giúp mình che giấu được triều đình càng tốt hơn nữa.
Nếu như Hoàng đế đã chết thì nhân cơ hội này mình chặn giết một mớ quân Bá Nhan khiến Thát Đát suy yếu, nâng đỡ Ninh vương lên ngôi. Sau đó dựa vào chiến công và công phò tá để nắm giữ binh quyền, dần dần mình liền có thể ung dung giành lấy giang sơn. Thật sự cho rằng ta sẽ cắt nhường Cam Túc, Thanh Hải và Liêu Đông cho thằng ngu như ngươi sao?
Trương Dần cười lạnh lùng, không đợi tướng lĩnh dưới quyền hỏi lệnh đã lập tức hạ lệnh:
- Đặng chỉ huy nhanh chóng bố trận bán nguyệt cản địch. Quan chỉ huy dẫn quân chiếm giữ điểm cao bên cạnh khe núi hẹp. Tướng sĩ bản bộ xếp thành phương trận!
Lúc này quân Thát cũng đã phát hiện cửa quan ải có đại đội quân Minh ngăn chặn. Đây là lối thoát duy nhất để bọn chúng chạy ra tái ngoại, vượt qua được thì chính là lên thiên đường, bị chặn lại thì sẽ có nguy cơ toàn quân bị diệt. Giữa ranh giới sống chết, đám quân Thát Đát đang liều mạng chạy trốn lại nổi lên bản tính hung hãn, kỵ binh vừa xông lên vừa bắt đầu nhanh chóng tụ tập lại tạo nên trận hình xung phong quyết chiến "đầu lợn rừng".
Loại trận hình này tương tự như trận hình tấn công mũi dùi của Trung Nguyên nhưng đội hình tập trung hơn, gần như ném bừa một hòn đá vào là có thể trúng ngay một tên lính hoặc một con ngựa. Đàn khoái mã đồng loạt phi nhanh nhằm mượn xung lực mạnh mẽ phá tan đội hình của quân ngăn chặn chỉ trong một lần xung phong.
Nhìn thấy uy thế dũng mãnh của địch đến mức này, Đặng Học Anh cũng không khỏi thầm hoảng sợ, nhưng lúc này cũng không thể lo nghĩ được nhiều nữa. Dưới sự chỉ huy của hắn, trường thương binh lập tức lao tới cửa khe núi vội vã lập thành một trận hình chặn đánh có dạng nửa vòng tròn lồi, sâu chín lớp.
Đối phó với làn sóng xung phong điên cuồng của kỵ binh như vậy, biện pháp tốt nhất của bộ binh là đứng phía sau chiến xa để ứng chiến. Nhưng nhiệm vụ cánh quân này khi hộc tốc chạy tới Đại Đồng là tiếp viện cho quan ải bị tấn công, hoàn toàn không mang theo chiến xa để tác chiến trên đất bằng.
Nếu như chỉ dùng bộ binh được trang bị nặng với trường thương cản địch thì phải lập ba nhóm quân hình tròn cách xa nhau năm sáu trượng, mỗi nhóm xếp thành mười sáu lớp chiều sâu, mới có thể chặn được đại đội kỵ binh xung phong. Nhưng lúc này có muốn cũng không còn kịp nữa.
Đội quân Thát Đát đánh úp núi Bạch Đăng vốn định một trận là thành công nên đều mang theo rất nhiều tên, mỗi người co cả sáu mươi mũi tên nanh sói, bây giờ trong túi của mỗi người cũng còn lại hơn mười mũi. Còn cách xa, bọn chúng đã đồng loạt giương cung bắn như vũ bảo, hàng vạn mũi tên bay lên không, khí thế cực kì đáng sợ.
Đội trường thương binh cùng hô lên một tiếng, lũ lượt cúi sát xuống đất, tay phải cầm cán thương dài đến hai trượng buộc tua đỏ, đầu cán chống chắc xuống đất, tay trái cầm lá chắn tròn che đầu. Lá chắn tròn không lớn nhưng binh lính đều cúi sát xuống đất nên cũng đủ để bảo vệ các phần yếu hại trên người.
Nhưng loạt tên của quân Thát quá mức dày đặc. Hàng loạt tiếng soạt soạt vang lên, dương như mặt đất trắng xóa bởi tuyết đột nhiên mọc đầy một mảng cỏ dại, những mũi tên có góc độ xảo quyệt vẫn bắn trúng một vài binh lính. Ngay tiếp đó đoàn thiết kỵ Thát Đát sải vó như rồng phi đã đến nơi.
Loại thương tua đỏ dài đến hai trượng này có sáp ong làm lõi, thân trúc làm cán, lại quấn thêm nhiều lớp sợi tơ, các lớp tơ này được kết dính bởi nhiều lớp sơn, cuối cùng lại sơn đen toàn thân. Cán thương kết hợp cương nhu vô cùng chắc chắn, đao búa tầm thường khó thể làm sức mẻ, có thể chịu được sức mạnh mà không gãy, không hề thua kém cán thương bằng sắt thép mà lại hơi nhẹ nhàng hơn.
Thiết kỵ Thát đát đã lao tới. Tuy bọn chúng biết rõ là sẽ phải chết thảm nhưng cũng không còn con đường thứ hai để chọn, thậm chí chỉ cần hơi chần chừ do dự thì sẽ lập tức bị đại quân cuồn cuộn không ngừng phía sau đụng ngã, giẫm đạp đến chết. Bọn chúng chỉ có thể xông lên, bất kể trong lòng có sợ hãi, có thật lòng muốn vậy hay không.
Mũi thương sắc lạnh lấp lánh chói mắt san sát như rừng đâm chếch lên một góc khoảng 35 độ. Chiến mã còn chưa chạm đến mũi thương thì kỵ sĩ trên ngựa đã tuyệt vọng hét điên cuồng, dướn mình lên vung đại đao mãnh liệt bổ xuống.
Tiếng "phụp phụp", "răng rắc" vang lên không dứt bên tai. Đó là âm thanh trường thương xuyên vào thân thể máu thịt của người lẫn ngựa cùng với tiếng vũ khí bị sức mạnh khủng khiếp bẻ gẫy. Kị mã trên ngựa rú thảm, lính trường thương dưới đất chặn đánh kẻ dịch cũng kêu thảm, người ngã ngựa đổ, hoa máu tung tóe.
Tiếng vó ngựa như sấm, đợt kỵ binh thứ hai đã ùa tới trong nháy mắt. Máu tươi trên không trung còn chưa rơi xuống đất, vó ngựa của bọn chúng đã giẫm đạp không lưu tình lên thân xác chiến mã và đồng đội vừa ngã xuống. Lại là âm thanh nặng nề khi trường thương xuyên vào cơ thể và tiếng kêu thảm tuyệt vọng của binh lính.
Đoàn ngựa đạp đội quân. Nếu như đội quân này là rừng rậm do thương dài, kích bén tạo thành thì sao?
Quân Thát tràn tới như thủy triều, các chiến sĩ xông vào trước tiên giống như sóng nước vỗ vào tảng đá, đột nhiên tung lên không trong tiếng gầm giận dữ rồi nặng nề ngã xuống tan xương nát thịt. Làn sóng sau lại tiếp tục quyết đoán tràn tới.
Trận địa trường thương dày chín lớp không thể ngăn cản đại quân Thát Đát liều mạng xung phong. Rốt cục "đầu lợn rừng" cũng phá vỡ được đội hình ngăn chặn rồi tiếp tục chạy trối chết vào trong khe núi. Xác người xác ngựa ngổn ngang ngoài cửa khe khiến tốc độ tháo chạy của đại quân Thát Đát hơi chậm lại.
Lúc này quan binh bản bộ của Trương Dần đã chia ra lập thành bốn phương trận thật lớn ngoài khe núi không ngừng bắn tên vào đám kỵ binh Tatar đông nghìn nghịt đang tràn tới. Đây là cửa khe núi, Bá Nhan và Hỏa Sư biết rõ nếu như ham chiến ở đây thì quân Minh đã chiếm được điểm cao ngoài cửa khe núi sẽ có thể ung dung bố trí, lúc ấy tình hình không thể vãn hồi được nữa. Các đội truy binh cùng kéo đến thì chắc chắn phía trước Cự Lỗ Môn sẽ biến thành Diệt Lỗ Cốc. Vì vậy bọn họ không còn lòng dạ nào ham chiến mà chỉ nghiêm lệnh đại quân tăng tốc, cố gắng vượt qua rừng thương mưa tên càng nhanh càng tốt để xông qua khe núi, rồi hợp quân với đội quân đang vất vả phòng thủ Cự Lỗ Môn.
"Soạt! Soạt" Lông trắng đầy trời gào thét ào tới."A! A!" Tiếng kêu thảm thiết thê lương vang lên từ trong đội ngũ, thân hình những kẻ trúng tên lộ ra nửa mũi tên với đuôi lông tới tấp ngã xuống ngựa. Kỵ binh phía sau dựa vào lực quán tính tiếp tục lao mạnh về phía trước.
Binh lính Thát Đát chưa bao giờ phải tham gia một trận đánh hèn nhát như vậy. Nếu như tác chiến chính diện thì bốn phương trận quân Minh sắp xếp ngoài cửa khe núi kia hoàn toàn không chống đỡ nổi thế xung phong của kỵ binh. Một khi đã bị bọn chúng chia cắt, chém gãy soái kỳ và cờ lệnh thì đám quân Minh không còn tổ chức và chỉ huy chắc chắn sẽ không đủ để chúng tàn sát trong một canh giờ.
Tuy nhiên ai biết triều đình nhà Minh còn có bao nhiêu viện quân đang lần lượt chạy tới? Ăn gỏi được đám quân này cũng đồng nghĩa với toàn quân bên mình sẽ phải chôn vùi ở đây. Khoái mã lao nhanh, người ngựa chen chúc, bọn chúng thậm chí không thể bắn tên phản kích mà chỉ có thể không ngừng xông, xông, xông lên dưới làn mưa tên và lửa đạn! Liên tiếp có người rơi xuống ngựa, liên tục có người mất mạng.
Đám quân Thát Đát xông được vào khe núi đã nhìn thấy quan ải Trường Thành xa xa trong tầm mắt. Nhưng vẻ mừng rỡ còn chưa kịp hiện lên mặt thì cơn mưa tên trí mạng từ đội quân của Đặng Học Anh trên điểm cao đã dội xuống đầu bọn chúng.
- Dựng lá chắn! Dựng lá chắn!
Có người hô to bằng tiếng Mông.
Nhưng quân Minh từ trên cao bắn xuống, cho dù một số kẻ đang phi nhanh vẫn còn kịp lấy lá chắn gỗ hoặc lá chắn bằng thép ra che chắn thì cũng chỉ bảo vệ được người chứ không bảo vệ được ngựa. Chỉ trong chốc lát, khu vực mưa tên rải xuống đã máu chảy thành sông.
- Chia quân công núi, đoạt điểm cao đó!
Có người lớn tiếng ra lệnh.
Hai tướng lĩnh Thát Đát gào thét dẫn mấy ngàn binh mã điên cuồng xông lên sườn núi. Bọn chúng không mong thật sự có thể đoạt được điểm cao này mà chỉ cần kiềm chế được quân Minh để che chở cho đội quân chủ lực thuận lợi vượt qua khe núi.
Cưỡi ngựa trên sườn núi bất lợi nhưng chiến sĩ Mông Cổ nhảy xuống ngựa vẫn thành thạo cung tên. Bọn họ bắn tên nhanh hơn, tầm bắn xa hơn quânMinh, đội quân của Đặng chỉ huy tạm thời bị ngăn chặn. Đã dùng mạng người tranh thủ được chút thời gian quý giá, quân Thát không ngừng xông vào khe núi, lao tới Cự Lỗ Môn như nước lũ.
Quân Thát đã xông vào hơn nửa. Dưới những đợt tấn công không ngừng của quân Minh, khắp trong và ngoài khe núi đầy xác chết. Truy binh quân Minh phía sau cũng đã rượt đến. Trương Dần cưỡi ngựa đứng trên một con dốc nhỏ quan sát tình thế chiến trường, trong tay là một cây trường thương dài trượng tám, cán thương chống xuống đất. Đột nhiên nhìn thấy cờ xí quân Minh xa xa, Trương Dần chăm chú nhìn kỹ,một lúc sau trong mắt hắn không khỏi thoáng qua một tia thất vọng.
Kinh Phật Nhi thúc quân rượt sát theo quân Thát Đát để kiếm chác, nhưng đuổi được tới Đại Đồng thì ngựa đã đuối. Hắn dùng thanh đại đao sáu mươi cân, thật sự là quá mức nặng nề, chiến mã không chịu nổi sức nặng của hắn lẫn vũ khí trên cả quảng đường dài. Hơn nữa hắn dốc toàn lực chạy một hơi từ Phi Hồ độ về núi Bạch Đăng, chưa hề ngơi nghỉ, nay thực sự không thể đuổi theo giặc được nữa. Vừa thấy thành Đại Đồng đã được giải vây, hắn liền xuống ngựa vào thành ra mắt bố nuôi trước. Lúc này đuổi ở phía sau quân Thát chính là binh mã của hai vị thiên tướng dưới quyền Vương Thủ Nhân.
Truy binh Đại Minh xa xa đã uể oải dừng lại cách một tầm tên giống như vui vẻ đưa tiễn tàn binh Thát Đát ra khỏi bờ cõi, đâu có vẻ nào nóng lòng báo thù cho chúa? Nếu bảo ngựa bọn họ đã đuối sức thì sao khi thấy phía trước có quân đội bạn chặn địch thì họ lại đột nhiên thúc ngựa nhanh chóng chạy tới? Chỉ cần xem tình hình này, Trương Dần đã biết Bá Nhan thất bại.
Hắn nặng nề thở dài một hơi trong lòng rồi mới lấy lại tinh thần, giơ trường thương trượng tám lên, mũi thương chỉa về phía trước lẫm liệt quát:
- Ba quân ra hết! Chặt đứt đội quân đoạn hậu của giặc Thát!Giết!
Ra lệnh xong, hắn thúc ngựa dẫn dội thân binh của mình lao ra.
Tuy Trương Dần được xem như một viên nho tướng nhưng tài cỡi ngựa của hắn quả thực rất tuyệt. Cây trường thương trượng tám như rắn độc phun lưỡi, gạt trái đâm phải tung hoành giữa trận địa địch, xuyên qua xuyên lại như con thoi, gạt, đâm, quét, chọc. Thế thương của hắn loang loáng qua lại khó thấy bóng dáng, trong khoảnh khắc đã đâm ngã năm sáu binh sĩ Thát Đát rơi xuống ngựa.
Mấy trăm thân binh của hắn theo sát phía sau như một thanh kiếm sắc cắt đứt đường đi của hơn một ngàn quân Thát đi cuối cùng. Chỉ bị trì hoãn một chút thôi, đại đội quân Minh đã phong tỏa cửa khe núi. Tiếng vó ngựa phía sau dồn dập vang lên, hai vị tướng quân du kích cũng dẫn hàng vạn kỵ binh nhanh chóng tràn tới.
Phía trước là rừng thương um tùm bày trận chờ địch, cung thủ đã giương cung tên cùng các tay súng hỏa mai ở hai cánh lạnh lùng nhìn bọn chúng chằm chằm. Chỉ cần vị tướng lĩnh quân Minh đang hoành thương ngăn ở phía trước kia ra lệnh một tiếng thì tên súng sẽ cùng bắn.
Lúc này tiếng vó ngựa như sấm nổ phía sau cũng càng lúc càng gần.
Thiên phu trưởng Thát Đát Khoát Khoát Đài giật cương cho ngựa chồm lên, cất cao hai vó trước, khua loạn trên không. Hắn đưa mắt nhìn quanh, đột nhiên không cam lòng giơ cao mã đao lên, bi phẫn hát to:
- Trời sao xoay tròn, các nước chinh chiến, đến thời gian lên giường ngủ một giấc cũng không có.
Giành giật cướp bóc lẫn nhau, thế giới quay vòng, các nước công phạt, ngay cả thời gian chui vào chăn ngủ một giấc cũng không còn.
Tranh đoạt, sát phạt lẫn nhau, không có thời gian mà suy ngẫm, chỉ có dốc lòng làm việc.
Không có nơi trốn tránh, chỉ có xung phong đánh trận.
(Tinh thiên toàn chuyển, chư quốc chinh chiến, liên thượng sàng phô thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương thưởng đoạt, lỗ lược. Thế giới phiên chuyển, chư quốc công phạt, liên tiến bị oa thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương tranh đoạt, sát phạt, một hữu tư khảo dư hạ, chỉ hữu tận lực hành sự. Một hữu đào tị địa phương, chỉ hữu xung phong đả trượng).
Hơn ngàn kỵ binh Thát Đát đầy người vấy máu tươi cùng giơ binh khí lên cao đồng loạt hát theo, âm thanh thê lương hùng tráng vang vọng trong khe núi mãi không thôi.
Mặc dù nghe không hiểu lời nhưng qua vẻ mặt và âm thanh của bọn chúng, toàn bộ binh lính quân Minh đều hiểu được, đều biết rõ hơn ngàn kỵ binh Thát Đát này đã quyết tâm tử chiến với mấy vạn quân Minh, thề chết không hàng.
- Đã đến nơi ta nói sẽ đến, đập vỡ tan từng tảng đá cứng, đã công nơi ta nói sẽ công, phá hủy từng tảng đá cứng. Chém vỡ núi cao, cắt đứt nước sâu; dũng cảm như vậy để giết địch, làm cho cả mặt đất biến thành bãi cỏ của người Mông Cổ!
Không có người phát hiệu lệnh. Câu cuối cùng vừa hát xong, tất cả kỵ binh Mông Cổ không hẹn mà cùng ghìm cương xoay ngựa trở lại; dương đao, đạp chân, hơi chồm người lên xông tới kỵ binh Đại Minh vừa đuổi tới nơi! Bọn chúng dĩ nhiên tàn khốc, khát máu, tham lam, nhưng đồng thời cũng đầy tâm huyết, dũng cảm và cao ngạo. Bọn chúng thà làm anh hùng trên ngựa quyết chiến đến cùng với đội kỵ binh của một dân tộc khác!
"Đoàng! Đoàng! Đoàng!" Tiếng súng hỏa mai vang lên. Khoát Khoát Đài vừa xoay người đã bị bốn năm mũi tên đâm sâu vào lưng, máu phun ra theo thân tên, cùng lúc đó tấm áo choàng bằng da thuộc cũng bị đạn bắn tan nát.
Hắn không nén được giận trợn tròn mắt:
- Vì sao... Vì sao không cho ta chết trận một cách anh hùng?
Khoát Khoát Đài muốn xoay người lại chất vấn quân Minh, nhưng cánh tay lực lưỡng của hắn không còn sức mạnh để nắm chắc cương ngựa nữa. Thân thể chỉ hơi lay động rồi hắn trợn trừng mắt, ngã cắm đầu xuống đất...
- Cường đạo chính là cường đạo, cho dù hắn rất dũng cảm... thì chẳng qua cũng chỉ là một cường đạo dũng cảm. Ngươi đã bao giờ thấy quan binh giết cường đạo còn phải tuân thủ luật lệ, qui tắc với chúng chưa?
Hai năm sau, tay lính hỏa súng Lỗ Nhị Ngưu đã thăng đến Bách hộ, nghiêm khắc giảng giải cho tiểu binh dưới quyền về trận chiến này.
* * *
Hoàng đế đã khởi giá trở về Đại Đồng. Dân chúng toàn thành đều đã nghe đến sự tích anh hùng của thiên tử thiếu niên định ra diệu kế đại thắng thiết kỵ Thát Đát. Nếu như lúc chen chúc nhìn lọng vàng rời khỏi thành đến núi Bạch Đăng, dân chúng chỉ tràn ngập tò mò với vị thiên tử sống tại Tử Cấm thành kia thì nay, bọn họ xếp hàng hoan nghênh lại hoàn toàn xuất phát từ nội tâm.
Hoàng đế là đại biểu của người Hán, quang vinh của hắn chính là quang vinh của tất cả mọi người Hán. Ai không muốn lãnh tụ của mình là một anh hùng có thể khiến cho mình tự hào và kiêu ngạo?
Quân Thát đã gây ra bao nhiêu tội ác ở vùng biên giới, bao nhiêu người cửa nát nhà tan, vợ con ly tán vì chúng, bao nhiêu người phải rời xa quê quán, lo lắng hãi hùng vì chúng?
Đủ loại tin đồn lan truyền rất nhanh trên phố, mặc dù đều rất ly kỳ, thậm chí hoang đường không hợp logic. Quân số giặc Thát bị giết chết được tăng lên gấp mấy lần, thậm chí đã vượt qua tổng dân số của cả đại mạc thảo nguyên nhưng trăm họ đều tình nguyện truyền bá nó, sẵn sàng tin tưởng nó. Ai dám nghi ngờ một câu sẽ lập tức bị một đám người mắng nhiếc nước bọt văng tung tóe đành ôm đầu chạy trốn.
Tốc độ Dương Nhất Thanh kéo quân về cứu viện đã tới cực hạn của bộ binh nhưng chung quy hai chân vẫn không thể chạy nhanh bằng bốn chân. Đến nửa đường, mấy vạn đại quân đã nhận được tin Hoàng thượng về thành, bộ đội sở thuộc của ông ta lập tức tới trước cửa thành Đại Đồng nghênh giá.
Đội quân của ông ta cuồn cuộn kéo đến dưới thành Đại Đồng. Vừa nhìn qua đã thấy quân uy nghiêm chỉnh, giáp trụ sáng ngời, đâu có chút dáng vẻ gì vừa trải qua một trận huyết chiến? Dân chúng thấy vậy càng tin tưởng lời đồn Hoàng Đế thân chinh khiến tướng sĩ dũng cãm như hổ như rồng, lấy một địch trăm, lấy một cản ngàn, Bá Nhan Khả Hãn quăng mũ cởi giáp,vừa nghe thấy tiếng đã bỏ chạy.
Đại vương, Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc cung nghênh thánh giá tại cửa thành Đại Đồng. Hoàng đế Chính Đức vừa đến nơi, cả bọn lập tức đồng loạt quỳ rạp xuống đất không dám ngóc đầu. Trên đường đi, lòng Dương Nhất Thanh tràn đầy tâm sự nặng nề. Ông ta là Tổng chế tam quan, có trách nhiệm phòng ngự cả chiến khu. Giờ đây Hoàng đế không bị thích khách ám sát mà là toàn bộ đội quân chủ lực của hoàng đế Thát Đát đàng hoàng tiến vào quan nội đánh giết lên núi Bạch Đăng. Thật sự ông ta không nghĩ ra được bất kỳ lý do gì để bào chữa cho mình.
Loan giá dừng lại, hoàng đế Chính Đức bước tới trước mặt bọn họ. Gương mặt nhà vua đã được lau rửa sạch sẽ, đương nhiên dáng vẻ chật vật của Hoàng đế vẫn không thể để cho bề tôi nhìn thấy.
Hai tay được chăm sóc rất tốt của Đại vương chống trên mặt đất trộn lẫn tuyết bùn dơ bẩn, lão run giọng tâu:
- Hoàng thượng bị tấn công! Hạ thần khó có thể chối tội, xin Hoàng thượng nghiêm trị!
Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc đồng loạt dập đầu:
- Tội thần đáng chết vạn lần, xin Hoàng thượng trị tội!
Các nhóm tướng lĩnh và quan chức đến nghênh tiếp cùng đồng loạt quỳ xuống. Mấy vạn đại quân cũng lũ lượt quỳ xuống kính cẩn, không một tiếng động.
Trong đó thật sự lo sợ chỉ có ba người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh.
Không cần phải nói đến Dương Nhất Thanh hiện đang là Tổng chế tam quan.
Hồ Toản là tuần phủ Đại Đồng. Trước khi Dương Nhất Thanh nhận lệnh thống lĩnh ba quân, việc quân sự lẫn chính trị Đại Đồng đều nằm trong tay lão, quan chức cấp dưới thiên tổng đều do lão ký lệnh bổ nhiệm. Tuy lão là quan văn, không rành quân vụ, hai tên phản tặc Vương Hổ, Lý Nghĩa đều do các lão tướng trong quân đội tiến cử rồi lão mới bổ nhiệm; nhưng lý lẽ này mang ra phân trần với ai được đây?
Còn Đại vương thân là biên vương trấn thủ Đại Đồng. Dù thường ngày không can thiệp vào việc quân sự lẫn chính trị quá nhiều, nhưng trên danh nghĩa ông ta cũng là quan chức có cấp bậc cao nhất, hơn nữa vào thời chiến lại có quyền nắm tướng, điều binh. Trong quân xuất hiện gian tế thì ông phạm tội tắc trách, Hoàng đế gặp nạn lại đóng cửa thành không cứu càng là tội lớn, làm sao không sợ hãi cho được?
Lúc bước xuống kiệu, Chính Đức đang cực kì vui vẻ. Vừa nghe mấy lời thỉnh tội, hắn chợt nhớ lại nỗi nguy hiểm trên núi Bạch Đăng, lập tức sa sầm nét mặt.
Trên đường về, ngồi trong kiệu hắn càng nghĩ càng thấy vui vẻ. Trận này đánh cho Bá Nhan thảm bại chạy trốn, địa vị Đại Hãn của hắn khó lòng yên ổn được nữa, ngọn lửa nội chiến dấy lên trên thảo nguyên cũng ít nhất có thể đổi lấy mười năm an bình cho chốn biên thùy. Hơn nữa có sự hợp tác của Đóa Nhan Tam Vệ, có sự phân liệt bên trong Thát Đát, nếu như mọi việc phát triển theo đúng trù liệu của Dương Lăng thì thậm chí ngay trong lúc hắn thống trị giang sơn đã có khả năng nhất thống đại mạc, đó chính là diện tích của mấy tỉnh cơ đấy!
Chính Đức tuy nhỏ tuổi nhưng cũng biết điều đó có ý nghĩa gì: "khai cương thác thổ" "mở mang bờ cõi"! Địa vị của hắn trong Tông miếu sẽ vượt qua ông cha trở thành thánh quân chỉ thua hoàng đế khai quốc! Công nghiệp lớn lao bao nhiêu đế vương cẩn trọng cầm quyền cả đời cũng không đạt được, còn hắn vừa mới đổi niên hiệu Chính Đức, trở thành hoàng đế Đại Minh đã làm được rồi.
Tính khí trẻ con, vừa mới hết sợ hắn đã nghĩ đến chuyện hay: không phải Nhất Tiên rất thích anh hùng hay sao? Không phải cô ấy nói phu quân tương lai của mình phải là một đại anh hùng đội trời đạp đất, phải có bản lãnh bảo vệ cô ấy, có bản lãnh bảo vệ trăm họ Đại Minh không bị người khác bắt nạt hay sao? Không phải Trẫm đã làm được rồi sao?
Ha! Ban đầu cùng Dương Lăng đến Thì Hoa quán, bị đánh một trận được quen biết Đường Nhất Tiên. Lần này cùng hắn đến núi Bạch Đăng, bị dây đậu với thạch tín hun nhem nhuốc một hồi lại thu được công lao hiếm có. Y đúng là phúc tướng của Trẫm. Loại chuyện thua thiệt chút ít mà lợi lộc vô biên như thế này phải nên xảy ra càng nhiều càng tốt.
Chính Đức càng nghĩ càng thích, lúc xuống kiệu mặt mày vẫn còn hớn hở, nay vừa nghe đám người Đại vương này thỉnh tội thì nộ khí của hắn chợt bốc lên. Hắn vừa định phát tác, đột nhiên Lưu Đại Bổng Chùy lớn giọng hô to:
- Hoàng thượng bày mưu tính kế anh minh thần võ, đánh bại Khả Hãn Bá Nhan, kết minh Đóa Nhan Tam vệ, thực là minh quân đương thời, thiên cổ hiếm có! Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
- Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Mấy vạn đại quân đang quỳ gối cùng hô to. Âm thanh chấn động nhà cửa, quả thực có thể làm chim trên cây phải rơi xuống đất. Tiếng hô chưa dứt, trăm họ xếp hàng chào đón trong thành cũng nô nức hoan hô theo.
Dương Lăng tiến lên một bước, khẽ ho một tiếng rồi tâu nhỏ:
- Hoàng thượng, toàn thể tướng sĩ biên quân và trăm họ đều đang khen ngợi công đức của bệ hạ.
Nói xong, y lướt nhìn Đại Bổng Chùy với vẻ khen ngợi. Tuy gã này không biết chữ nhưng trí nhớ lại tốt. Chỉ cần dạy gã một lần, bất kể có hiểu ý gì hay không thì gã cũng có thể nhắc lại y chang, không sai chữ nào.
Vừa nghe Dương Lăng nói vậy Chính Đức lập tức hết giận. Chuyện trong quân xuất hiện gian tế vốn đã không nên để lộ ra ngoài, tránh cho bá tánh hoang mang, huống chi nếu để mọi người biết công lao này của mình là do đánh bậy đánh bạ mà thu được thì còn đâu là vinh quang nữa? Không chừng mấy lão già trong kinh lại lợi dụng việc này mà rêu rao can gián. Tốt nhất vẫn nên xử trí nhẹ nhàng việc này là hơn.
Nghĩ tới đây, Chính Đức liền đổi qua gương mặt hớn hở, mỉm cười nói:
- Các vị ái khanh đại thắng Thát Đát, có công với xã tắc, nào có tội gì? Nếu không có Đại vương đốc thúc tử thủ Đại Đồng, không trúng kế dẫn quân ra thành để tránh bị địch lợi dụng, thì chẳng những Đại Đồng rơi vào tay giặc làm muôn vàn dân lành gặp nạn mà Trẫm cũng đành phải vội vàng bỏ trốn về kinh.
Còn các tướng như Dương khanh, Trẫm sẽ thưởng phạt phân minh. Cái gọi là khuyết điểm không che lấp được ưu điểm, công không che lấp được tội. Nào nào! Các vị ái khanh hãy bình thân. Trước hết theo trẫm về thành đã.Tư thông kẻ địch phản bội tổ quốc đương nhiên phải nghiêm trị, nhưng giờ đây chính là lúc quân dân toàn thành cùng vui, trước hết cứ gác việc này lại một bên.
Hồ Toản nghe Hoàng thượng chỉ nhắc tới Dương Nhất Thanh và Đại vương, còn mình thì ngài không hề đề cập tới chữ nào liền biết tám chín phần mười là mình sẽ phải gánh chịu án oan này rồi. Nhưng hai tướng lĩnh gian tế đó quả thật là do mình bổ nhiệm khi làm Tuần phủ giám sát quân vụ Đại Đồng, giờ đây Hoàng thượng chỉ bị kinh sợ chứ không bị nguy hiểm. Quân đội đã đánh bại giặc Thát, mình được thơm lây nên chỉ bị bãi quan chứ không bị chém đầu đã là ân đức lắm rồi, còn có gì để nói nữa? Cho nên lão đành lặng lẽ đứng lên không nói một lời.
Tiếng Dương Lăng thì thầm với Chính Đức rất nhỏ, Trương Dần quỳ ở phía sau không hề nghe thấy, nhưng hắn lại quan sát vẻ mặt của hai người cực kì tỉ mỉ. Thoạt tiên Chính Đức bất chợt lộ vẻ giận dữ rồi lại lập tức có thể thản nhiên bỏ qua đại tội lơ là phòng bị khiến cho Hoàng đế gặp nguy hiểm, tất nhiên là vì nghe lời Dương Lăng. Tầm ảnh hưởng của người này đối với Hoàng đế thật sự là quá lớn.
Kế hoạch mượn tay Dương Hổ ám sát Hoàng đế đã thất bại, kế hoạch mượn tay Bá Nhan diệt trừ Hoàng đế cũng thất bại nốt. Lần nào trong kế hoạch cũng chỉ xuất hiện một điều bất ngờ, nhưng chính do một sơ suất này đã làm cho mình thua thiệt dưới tay người khác, từng bước bị dồn vào thế bị động. Kế hoạch đã được tính toán tinh vi lại không thể không năm lần bảy lượt sửa đi đổi lại, đúng là không cam lòng.
Là số mệnh của Chính Đức vẫn chưa hết hay là vận may của ta quá kém? Mấy vạn đại quân của Bá Nhan cũng không thể ám sát được Hoàng đế, xem ra ta phải thay cung đổi tên rồi. Không thể giải quyết Chính Đức để phò trợ Ninh vương thuận lợi kế vị thì ta sẽ khơi dậy dã tâm của Ninh vương, khiến cho thời Đại Minh lại diễn màn kịch chú đoạt quyền cháu lần nữa.
Nghĩ tới đây, Trương Dần lặng lẽ đánh giá Dương Lăng. Hắn thầm nghĩ: "Người này rất được Hoàng đế tin cậy, có uy tín với Hoàng thượng. Thay vì hao hết tâm tư diệt trừ y mà không được thì tại sao ta lại không thể lợi dụng y? Dương Hổ là đệ nhất hảo hán Bá Châu, Bá Nhan là tay kiêu hùng đại mạc mà ta còn có thể lợi dụng lòng tham của chúng để đùa bỡn chúng trong lòng bàn tay, chẳng lẽ ta lại không lợi dụng nổi Dương Lăng? Người có ưu điểm sẽ có nhược điểm! Y thích quyền, thích lợi, thích danh hay là thích sắc?"
Trương Dần cẩn thận suy tính các thông tin đã biết về Dương Lăng. Hắn khẽ gật gù: "Người này tuổi trẻ đã được quyền cao chức trọng, chắc chắn những điều y thích không ngoài quyền, sắc! Y có thể cõng vợ tìm thầy thuốc, kháng cự thánh chỉ, hiển nhiên là tính khí thiếu niên, hết lòng yêu mến phụ nữ, người như vậy lại không khó đối phó. Có lẽ ta có thể sắp đặt một tai mắt đáng tin cậy bên cạnh y. Cho dù không thể có ảnh hưởng đối với y thì cũng nhất định có thể giúp cho ta nắm giữ những việc cơ mật của triều đình."
Mặt không đổi sắc, Trương Dần ngẫm nghĩ: "Thạch lựu quần hà túy an miên, tỉnh thời do ức tiểu man yêu. (Rượu say ngủ dưới chân nàng, thức thời tưởng đến chiếc eo thon mềm). Hoàng đế có thể cho y quyền lợi, còn bản giáo lại có đầy mĩ cơ tuyệt sắc. Đối phó với tay quyền thần trẻ tuổi như vậy thì lấy sắc đẹp dụ dỗ làm nước cờ đầu là thỏa đáng nhất!"