Trên chiếc giường La Hán ở phía bên hông hậu đường, Tuyết Lý Mai đang chơi đùa với con trai, sắp được mười một tháng rồi. Tiểu Dương đại nhân rất là xinh xắn, rất được các dì yêu thích. Cậu vịn vào đồ vật đã có thể đứng dậy đi tới lui. Lúc này, Dương đại nhân (Dương đại nhân này là chỉ con trai của Tuyết Lý Mai, không phải chỉ Dương Lăng) đang đặt tay lên bệ cửa sổ ở đầu sặp, nhón mũi chân nhìn ra ngoài cửa sổ, lúc lắc nhìn mấy cái, liền ngồi phịch xuống.
Một loại giường/sạp của người Hán thời xưa, hơi dài, có ba tay vịn dài ở ba phía, một số người gọi là sạp ba thành.
Tuyết Lý Mai uể oải nằm trên sạp, gối đầu lên chiếu gấm, lộ ra một đôi thiên túc trắng như tuyết, chỉ cần Dương đại nhân vừa ngồi xuống, nàng liền giơ chân đỡ lấy. Tiểu tử này mặc quần yếm, cái mông mềm mịn trắng nõn, mát như ngọc. Tuyết Lý Mai có lẽ còn mắc di chứng của gia pháp Dương thị, đặc biệt thích chạm vào cái mông đó.
Thiên túc: để chỉ chân của những người phụ nữ chưa bó chân.
Gần đây nàng đã trở nên đặc biệt uể oải, lúc nào cũng thích ăn chua cả. Diệu thủ của Cao đại tiểu thư vừa sờ vào, thì biết cô gái này đã trúng chiêu, đã mang thai rồi. Gia nghiệp to lớn của Dương gia, sinh thêm con cái là chuyện tốt. Hàn Ấu Nương vui mừng khôn xiết, chỉ có Ngọc Đường Xuân khóc không ra nước mắt: Đám tỷ muội thích nhất là theo lão gia chơi ngọc thủ hậu đình hoa đều đã mang thai hết rồi, bụng mình thì lại không có chút động tĩnh, ông trời thật không có mắt.
Hai ngày nay Ngọc Đường Xuân quấn quít lấy Cao Văn Tâm, không ngừng lãnh giáo từ nàng cách để sinh quý tử. Điều dở khóc dở cười, là hai người đều bình thường, phải đợi cơ duyên mà thôi, thế thì muốn nhau sống sao? Nếu có bản lãnh của Quan Âm Tống Tử, thì bụng mình cần gì phải bằng phẳng như thế này?
Không thể làm gì hơn, nàng đành phải kê mấy thang thuốc bổ cho nam nhân và nữ nhân, tuy nhiên sức khỏe của lão gia nhà mình là quan trọng hơn, nên mấy thang nàng kê đều là điều tinh bổ khí, cường thân kiện thể, không có một vị thuốc hổ lang nào.
Nói đi cũng phải nói lại, lão gia nhà mình không biết luyện khí thế nào, hay là đã học thành hành phòng tam thập bát pháp của Thành Khởi Vận. Sự dũng mãnh đó, hay khiến cho nàng hồn phi phách tán, rụng rời tay chân, lần nào cũng phải liên tục năn nỉ xin tha. Nằm yên cả ngày trời mà đến ngón út cũng không còn sức nhúc nhích, thật sự chưa phải lúc dùng dược vật.
Tiểu tử kia lại lần nữa ngã ngồi lên chân của dì Tuyết Nhi. Cậu sốt ruột xoay người, nhìn thấy dì Tuyết Nhi đang cười mỉm chi lấy ô mai đưa vào trong miệng, hai mắt không khỏi sáng lên, lập tức chỉ vào trong miệng nàng, kêu a a hai tiếng.
Bây giờ cậu vẫn chưa biết nói, ngoài Hàn Ấu Nương ra, bốn người mẫu thân xinh đẹp hằng ngày thay nhau dạy cậu gọi ma ma. Tiểu Dương đại nhân vẫn kiến quyết, không mở kim khẩu. Phàm cần gì, muốn đi đâu, cậu liền ra vẻ lớn lối chỉ tay ra, đơn giản chỉ nói ra chữ "A", lập tức muốn gì được nấy.
Tuyết Lý Mai đưa lan hoa chỉ lên, dùng hai ngón tay như cọng hành nhặt cục ô mai lên trêu đùa cậu. Tiểu Dương đại nhân giơ tay bắt lấy hai lần vẫn chưa lấy được, thế là nhếch miệng lên, chuẩn bị gào thét. Tuyết Lý Mai liền cười nói:
- Bảo bảo ngoan, đừng khóc, cho cho cho này!
Nàng cong miệng lên, nhả ra non nửa cục ô mai đã nát. Tiểu Dương đại nhân vội vàng nhanh chóng bò qua, đưa miệng tiếp lấy, vừa nuốt vào nhấp nhấp hai cái, thì khuôn mặt nhỏ nhắn của cậu liền nhăn nhó, với một vẻ mặt quái dị xuất hiện, cậu liền phun ra ngoài.
Tuyết Lý Mai cười rung rung hết cả người. Nàng vừa dùng tay hứng lấy ô mai Tiểu Dương đại nhân phun ra, vừa cười khanh khách:
- Ai bảo con tham ăn, cái gì cũng khoái, còn ăn nữa hay không? Hả?
Đôi môi anh đào của nàng mở ra, Tiểu Dương đại nhân sợ đến mức quay đầu bò đi, cái mông nhỏ lắc qua lắc lại trông vô cùng khôi hài. Đúng lúc này, Dương Lăng đang suy nghĩ về chuyện băn khoăn trong lòng, đi vào. Hắn đi đến hậu đường phải lách sang trái hoặc phải, bên trái là phòng đàn, bên phải có giường La Hán này chính là nơi phụ nữ ở nhà trọng gặp mặt nữ khách, bình thường là một trong những nơi mấy nữ nhân trò chuyện, cho nên Dương Lăng thường đi bên này.
Thấy Dương Lăng tiến vào, Tuyết Lý mai vội vàng ngồi xuống, chỉnh lại mái tóc hơi bù xù, cười ngọt ngào nói:
- Lão gia đã về. Lý đại nhân đã về thành rồi sao?
- Ừ, đúng vậy. Hầy, nàng không cần đề ý, cứ chơi với con đi. Ta đi đến chỗ Vận Nhi xem thử tư liệu mà cô ta và A Đức Ny đã chỉnh lý như thế nào rồi.
Dương Lăng nói xong liền đi đến bên cạnh giường lò, chơi đùa với con trai:
- Bảo bối ngoan, ngày mai lão tử dẫn con đi câu cá, nào, gọi tiếng ba ba đi.
Đứa bé vẫn chưa biết nói, hắn chỉ là thuận miệng nói ra, nói xong liền xoay người rời khỏi, đi đến bên cửa, chỉ nghe trên giường truyền đến hai tiếng non nớt:
- Ba ba ba, ba ba
Dương Lăng bước đi như bay, cũng đã ra đến cửa rồi, đột nhiên đùng một cái lại nhảy trở về, khinh công Võ Đang "Thê Vân Tung" trong tay hắn có thể nhảy ngược hai mét rưỡi, đã xem như đạt đến đỉnh cao rồi.
Dương Lăng không kìm được vui mừng nhìn con trai, luôn miệng nói:
- Con nói gì? Mau mau, tiếp tục gọi, gọi ba ba.
Trong cái miệng nhỏ nhắn của Tuyết Lý Mai còn một miếng ô mai, đôi mắt cũng trợn lên, kinh hỉ đến trong như ngớ ngẩn.
Đôi mắt đen lay láy của Tiểu Dương Đại Nhân tỏa sáng nhìn cha, một mặt nắm chặt lấy chân của dì Tuyết Nhi, một mặt cười vui vẻ, chầm chậm nói:
- Ba ba, ba ba!
- Ah ha!
Dương Lăng mừng rỡ, hắn chạy sang ôm lấy con trai một cái, hôn lên hai má phúng phính của cậu, sau đó uy phong tám bề mà nói:
- Ai nói con trai học nói chậm? Đó là vì còn phải xem là ai. Con trai ta là người thế nào chứ, giống ta, thông minh lắm nha, ha ha ha ha
Dương Lăng nói xong vui mừng ôm con trai muốn chạy ra, miệng còn dương dương tự đắc:
- Ta mang con trai đi cho các nàng xem thử, ha ha, các nàng dạy hàng ngày, ta thì không cần dạy, mở miệng thì biết gọi ba ba.
Tuyết Lý Mai vội kéo lê giày dưới đất, gắt gỏng:
- Đừng gấp, con chơi đến đầy mồ hôi, cẩn thận gió thổi, xem chàng vui chưa kìa.
Dương Lăng vội đặt con vào lồng ngực nàng, nói:
- Vậy nàng mang nó theo, ta đi gọi bọn Ấu Nương đến.
Trong chốc lát, chỉ thấy Dương Lăng dẫn theo Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm, Ngọc Đường Xuân, còn có tiểu nha hoàn Vân Nhi tiến vào.
Trong lồng ngực của Tiểu Vân còn một một con chó Pug (con này các vip có thể tham khảo google để biết thêm.), loài chó này là do một người nuôi chó trong kinh sư vừa đào tạo ra, Dương Lăng vừa nhìn đã biết là chó Pug, nhưng lúc bấy giờ lại là một vật hiếm có. Bá tánh kinh sư cảm thấy loài chó nhỏ này vừa đáng yêu vừa hiếm. Trước mắt vì số lượng ít, nên chỉ có gia đình hoàng thân quý tộc mới mua được. Còn chó nhỏ này là một trong những bạn chơi của đại thiếu gia Dương gia.
Hàn Ấu Nương kinh hỉ nói:
- Mau để thiếp xem thử, con trai bảo bối thật sự biết gọi cha rồi à?
Chỉ thấy Tiểu Dương Đại Nhân ôm lấy chân của dì Tuyết Nhi, đang không ngừng gọi "ba ba". Tuyết Lý Mai cười nghiêng ngã, cười đến ra nước mắt, thấy bọn họ tiến vào, nàng cười khanh khách nói:
- Lão gia mừng hụt rồi. Tiểu bảo biết gọi ba ba, nhưng chỉ là biết gọi là thôi, nó gặp cái gì cũng gọi.
Quả nhiên, Tiểu Dương Đại Nhân nhìn thấy con chó Pug trong lòng Vân Nhi, liền vui vẻ buông chân của dì Tuyết Nhi ra, chỉ về phía con chó Pug kia, a một tiếng, rồi sau đó gọi "ba ba, ba ba".
Mấy người Hàn Ấu Nương, Cao Văn Tâm không nhịn được cười, còn Dương Lăng thì dở khóc dở cười, đặt mông ngồi ở đầu giường lò, chỉ vào con trai nói:
- Tên tiểu khốn kiếp nhà ngươi, thật sự là làm cho lão tử đẹp mặt đấy, còn không bằng không biết gọi. Được rồi được rồi, không cần gọi nữa.
- Ba ba, ba ba
Mấy người Hàn Ấu Nương càng cười dữ đội hơn. Dương Lăng không thể đỡ được, đành phải cười gượng hai tiếng, nói:
- Tuy rằng không hiểu rõ ý gì, nhưng ít nhất nó còn biết gọi. Ha ha, các nàng muốn nó gọi, nó còn mặc kệ không để ý đến.
Con trai cuối cùng cũng biết mở miệng nói chuyện, đây chính là một chuyện vui lớn, không còn người nào để ý để Dương Lăng hắn. Mấy người Hàn Ấu Nương lập tức vậy quanh Dương đại thiếu gia, mồm năm miệng mười nói:
- Con trai ngoan, bảo bảo giỏi, lại đây, gọi một tiếng ma ma nghe xem nào.
Tên tiểu tử trừng đôi mắt đen như nước sơn, kinh ngạc nhìn nhìn mẫu thân và dì hơi có vẻ kỳ quái, sau đó xoay người lại, lắc cái mông nhỏ bò về phía Dương Lăng, suốt quãng đường cứ gọi ba ba, sà vào trong ngực của hắn, chỉ chổng mỗi cái mông lên, rõ ràng là đã bị các nàng dọa cho sợ rồi.
Ngọc Đường Xuân thở dài, dùng cái chân to chỉ lên cái mông của cậu một cái, giận dỗi nói:
- Con sói con mắt trắng này, rốt cuộc vẫn là người của lão Dương gia người ta mà, đến gọi dì một tiếng cũng không chịu, thật nhỏ mọn!
Dương Lăng ôm con trai thoải mái cười to. Hắn tạm thời gác lại công sự, gọi người lấy dưa hấu ướp lạnh, nước ô mai đến, cùng kiều thê ái thiếp còn có đứa con trai yêu dấu, cười nói tán dóc, vui vẻ ấm áp.
Dương Lăng đi đến ngồi trên giường lò, ăn dưa, hoa quả, trò chuyện cùng cả nhà. Đứa bé cùng với con chó Pug nhỏ, chui đi chui lại giữa hai chân bọn họ, chơi đùa vui vẻ. Tình cờ bốn mắt nhìn nhau với Ấu Nương, Dương Lăng và Ấu Nương nhìn vào mắt lẫn nhau, thỏa mãn, ấm áp, thân tình và ngọt ngào.
Đúng vậy, những năm tháng gian khổ nhất sớm đã qua đi rồi, những chuyện sống chết có nhau trong gian khổ cũng sẽ không xuất hiện nữa, theo thời gian trôi đi, những chuyện chua xót lúc xưa sẽ trở thành những hồi ức đẹp. Có lẽ đến một ngày nọ, lúc hai người già đến không đi nổi, ngồi trên xích đu, con cháu thì giống như bây giờ, có mấy đứa nhỏ chơi đùa ở đó, rồi cứ mãi kể với chúng về những chuyện năm xưa.
Hiện tại, thứ tích lũy được, là tình cảm ngày càng sâu đậm của họ. Cuộc sống của họ, tình cảm của họ, hạnh phúc hơn tuyệt đại đa số người trên thế giới. Hạnh phúc, thế này đã đủ rồi.
Dương Lăng đi đến chỗ Thành Khởi Vận, chỉ thấy hai tiểu mỹ nhân Thành Khởi Vận, A Đức Ny đang tranh cãi đến đỏ mặt tía tai, Sở Linh chống cằm ngồi trước bàn, cười ha ha coi bộ rất thích thú.
Dương Lăng ngạc nhiên nói:
- Chuyện gì mà tranh cãi ghê gớm thế?
Hai người vừa thấy Dương Lăng, lập tức chen lấn nhau cáo trạng:
- Đại nhân, ngài đến phân xử thử xem, có một vấn đề liên quan đến thuế phú
- Dương, Vận Nhi tỷ tỷ quá bảo thủ rồi, chỉ là sửa đổi đối với thể chế cũ, theo ta thấy, phải đao to búa lớn
- Ngừng ngừng ngừng!
Dương Lăng bị các nàng cãi nhau đến đau cả đầu, liền một tay kéo một người đến trước bàn, ấn lên vai của các nàng rồi nói:
- Ngồi xuống hết cho ta.
Hắn liếc mắt nhìn Sở Linh xinh đẹp đang cười khanh khách, nói:
- Không cần giữ lễ tiết, ngươi cũng ngồi xuống đi.
Nói đoạn bản thân hắn cũng ngồi xuống, châm cho mỗi người một ly trà, cười ha ha nói:
- Được rồi, thanh thiên đại lão gia ở đây, có oan khuất gì, cứ việc nói từng cái một.
Hai tiểu mỹ nhân đồng thời khẽ hừ một tiếng, yêu kiều lườm hắn một cái, sau đó nhìn nhau, nhưng cũng không nói tiếng nào.
Dương Lăng thấy hai khẩu súng máy đã tắt ngúm, liền cười cười nói:
- Sở Linh, ngươi nói đi.
- A! Tiểu nhân tiểu nhân nói à
Sở Linh rụt rè nhìn bà chủ, bà chủ không tỏ vẻ phản đối, nàng đành phải miễn cưỡng nói với ông chủ:
- Là như thế này. Chẳng phải Quốc công gia đã nói hai vị cô nương bàn luận về "Tịnh Chính Thập Nhị Sơ" của ngài đó sao. Cái này về phần lại trị, đất đai, thuế phú, còn có quân chế, à ờ cách nhìn của A Đức Ny cô nương và tiểu thư trái ngược hoàn toàn, tranh luận với nhau chỉ hơi kịch liệt một chút thôi, Quốc công gia cứ yên tâm.
Dương Lăng nghe xong liền hiểu. Kỳ thực hắn bảo hai người thảo luận, chỉ là muốn tham khảo một chút ý kiến của các nàng, chủ ý của hắn là luôn nối liền với đám người Dương Thận, Tiêu Phương, Dương Nhất Thanh, tùy thời mà thay đổi theo ý họ.
Thành Khởi Vận hiểu rất thấu triệt về nhân tính, tâm lý. A Đức Ny đến từ phương tây, đối với chế độ của phương đông không quen từ nhỏ những tập quán ở đây, để nàng giúp xem xét kỹ càng, nói không chừng từ góc độ của một người bàng quan có thể nhìn ra được cấu tứ gì đó. Dương Lăng bảo các nàng nghiên cứu kỹ, là muốn từ góc độ của các nàng mà càng hoàn thiện chế độ hơn một chút, giảm thiểu những lỗ hổng đi một chút, như vậy một khi trình lên, những cản trở gặp phải mới có thể giảm đến thấp nhất.
Kỳ thực lúc bấy giờ bất luận là thể chế chính trị hay là thể chế kinh tế, thậm chí bao gồm chế độ khoa cử tuyển tài bị người đời sau lên án khá nhiều, so với phương tây đều tương đối hoàn thiện và tiên tiến hơn. Nhưng phương đông duy danh, so với quan niệm giá trị của phương tây duy lợi, không thể nghi ngờ là phương tây thiết thực hơn, về phương diện chế độ dân chủ so với phương đông cũng tiên tiến hơn một chút.
Dương Lăng chỉ là bảo hai người tùy ý xem xét, cho vài ý kiến, không ngờ hai người thật tình như thế. Hắn vừa cảm động, vừa cảm thấy buồn cười. Dương Lăng ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói với Thành Khởi Vận:
- Ừ, ta hiểu rồi. Được, trước tiên chúng ta nói về lại trị. Nàng nói thử xem, sự khác nhau của các nàng tập trung chủ yếu ở chỗ nào?
A Đức Ny cướp lời nói:
- Ta cho rằng chọn hiền tài để bổ nhiệm, phải giải quyết vấn đề từ căn nguyên. Việc cấp bách bây giờ là cắt giảm người thừa, tuyển chọn nhân tài. Chọn nhân tài phải không hỏi xuất thân, lai lịch, mạnh dạn đề bạt quan viên trẻ tuổi, bọn họ có tầm nhìn sâu rộng, dám đổi mới, tinh lực dồi dào. Ở địa phương, người tuổi quá năm mươi chỉ có thể thu làm tạp quan, không được làm trưởng của một châu huyện. Thưởng người ưu tú, trừng trị tham quan, yêu cầu phải làm hết bổn phận.
Dương Lăng xoa xoa cằm, trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Ừm, nói thì nói như thế, nhưng thi hành cụ thể, làm sao nắm chắc được thước đo này? Ai sẽ đi phán định người trẻ tuổi nào là người ưu tú? Rồi còn ai không phải là người hợp cách? Hơn nữa hơn năm mươi tuổi lại không được làm chủ quan chính đường, nhất định sẽ ảnh hưởng đến quan viên địa phương, dẫn đến sự cản trở của bọn họ, mà quan viên gần ngũ tuần, rất nhiều người cũng sẽ không yên tâm về chính sự, mà chuyên đầu cơ luồn cúi, kiếm lợi cho bản thân. Mấy vấn đề này làm sao giải quyết đây?
Khuôn mặt của A Đức Ny đỏ lên, Dương Lăng cười cười, an ủi:
- Nếu như thân làm người ngồi ngôi trên thanh liêm tài đức, sau đó chủ quản mỗi phủ một con đường, với cách chỉnh đốn như vậy, thì có thể dùng. Đặt vào một quốc gia rộng lớn, tin tức truyền cực kỳ chậm chạp, đó là chỗ không thích hợp. A Đức Ny căn cứ theo tình hình của quốc gia các cô mà nghĩ ra cách, mà quốc gia các cô không lớn hơn một phủ của nơi này, hạn chế như thế, chẳng trách cô được.
A Đức Ny tuy là thiếu nữ bác học đa tài, nhưng đối với việc hiểu rõ về cổ quốc phương đông, hiểu rõ chi tiết về quan trường và văn hóa hình thành qua mấy ngàn năm của nó, đương nhiên không bì được với Thành Khởi Vận, cho nên lời nói ra không khỏi hơi xa rời thực tế. Thành Khởi Vận nghe ra được hắn không đành khiến cho A Đức Ny khó chịu, không khỏi hé miệng cười.
Dương Lăng trừng mắt nhìn nàng, hỏi:
- Vậy nàng nói xem, nàng có cao kiến gì?
Thành Khởi Vận mỉm cười nói:
- Thiếp cho rằng, chính sách thi hành, là từ trên xuống dưới, muốn chỉnh đốn lại trị, thì phải lấy pháp trị làm hạt nhân lý chính, cộng thêm quyền lực khống chế của triều đình, mới có thể đảm bảo tân pháp thi hành được. Cách làm cụ thể, đại nhân đã lót một con đường đi thật tốt, thực hiện cũng dễ hơn.
- Đô Sát viện, Hàn Lâm viện, những Ngôn quan của mười ba đạo Ngự sử, không phải vừa được chỉnh đốn lại đó sao? Hiện tại quan viên được giữ lại và người mới được đề bạt lên, bất luận là phẩm chất hay là năng lực đều tương đối tốt. Đại nhân trước tiên phải tăng mạnh sức mạnh khoa đạo, lấy lục khoa Cấp sự trung chế ngự lục bộ, tầng tầng khống chế, tầng tầng khảo hạch, thưởng phạt phân minh, trách nhiệm rõ ràng, đề cao mức độ các bộ các ti chấp hành chính lệnh.
Dương Lăng thầm gật đầu: "Trước mắt ở xã hội phong kiến đại nhất thống như thế này, nếu muốn cải cách thành công, chỉ có làm từ trên xuống dưới, làm cho được chức quyền quy về một. Nếu như không gia tăng sức khống chế đối với các cấp cơ cấu của triều đình, thì cải cách chỉ là nói suông. Bên trên hao tổn tâm cơ chế định ra chính sách, thì bị bên dưới sắp xếp theo ý mình, căn bản không thể thực thi một cách quán triệt.
Cho nên, tăng cường trung ương tập quyền là điều tất yếu. Kỳ thực tập quyền cũng được, phân quyền cũng được, đều có một thời đại bối cảnh phù hợp với nó. Trên cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa trước mắt, và với trình độ khoa học kỹ thuật năng lực truyền tin lúc bấy giờ, nếu như muốn phân quyền, muốn dân chủ, thì thật sự là đưa đầu cho lừa đá rồi. Đem chủ nghĩa không tưởng ra mà thực hiện, không làm cho thiên hạ đại loạn mới lạ.
Đương nhiên, tập quyền như thế này lại có chỗ khác. Nếu như đại quyền toàn bộ nằm trong tay Hoàng Đế, lúc Hoàng Đế là minh quân, vậy thì hằng ngày phải xử lý trăm công nghìn việc rồi, có thể khiến cho ngài mệt chết. Còn nếu như đó là hôn quân, vậy thì thiên hạ ai nấy cũng đều hủ bại.
Trên thực tế, đề nghị của Thành Khởi Vận là tăng cường năng lực cầm quyền trong Nội các, mà năng lực này, lại đặt dưới sự giám sát của hệ thống giám sát. Cứ như vậy, Nội các không phải là ở dưới một người, chính tích của các quan viên và phẩm tính cá nhân lại chịu sự khống chế khá mạnh mẽ, đích thật là biện pháp tốt để đề cao hiệu suất của đội ngũ quan liêu.
Quan trọng nhất là, điều này hoàn toàn phù hợp với phân tích về quyền lực mà Lý Đông Dương nói. Mặc kệ là cải cách gì, nhất định phải tổn hại đến quyền lợi của một bộ phận, mấu chốt của vấn đề là ngươi có thể tranh thủ sự ủng hộ của một bộ phận quan liêu khác hay không. Dựa theo phân tích này, quyền lực của Nội các được gia tăng, quyền lực của khoa đạo được gia tăng, vậy thì đầu tiên mình sẽ tranh thủ cả hệ thống giám sát, trở thành người ủng hộ kiên định bất di bất dịch của cuộc cải cách của mình.
Trước khi Dương Thận đi Nô Nhi Can, từng đề cập những kiến giải tương tự với hắn, hiện tại không mưu mà hợp với những điều mà Thành Khởi Vận nói, Dương Lăng không khỏi khen ngợi không ngớt lời. Hắn và Thành Khởi Vận lại tỉ mỉ thảo luận vài điểm, về phương pháp khảo hạch của khoa đạo quan đối với quan viên, như trưng thu thuế phú, kiểm tra cuối nhiệm kỳ, chế độ bổ nhiệm và miễn nhiệm của chính tích khảo hạch.
Trong quá trình phân tích, một vài điều vừa hay chính là cái mà lúc trước Lưu Cẩn từng làm, chẳng qua Lưu Cẩn làm như vậy hoàn toàn chỉ là vì chỉnh đốn mọi người, mượn việc khảo hạch để tuyển tài cho mình, kết quả là khiến cho lão nghĩ sai lệch. Giờ nhắc lại chuyện xưa, nhớ đến Lưu Cẩn, Dương Lăng không khỏi xúc động thật lâu, đồng thời cũng cảnh tỉnh bản thân:
Dùng thái độ nhập thế mà làm việc, dùng thái độ xuất thế mà làm người.
Cái quyền lực này mình không thể cần, cũng quyết không thể giao cho một cá nhân nào. Quyền lực thi hành này, nhất định phải thật sự buông bỏ, đưa vào tay lục khoa thập tam đạo, nhiều khoa đạo quan như vậy, giữa bọn họ có thể chế ước lẫn nhau, phòng ngừa có người quyền lực tập trung quá nhiều, huống hồ bên trên còn có Nội các kiềm chế lẫn nhau nữa.
Khảo hạch đối với quan viên tập trung vào trưng thu thuế phú, kiểm tra cuối nhiệm kỳ, thì đảm bảo khảo hạch có căn cứ, có chừng có mực, mà không phải là do quan viên giám sát nói ra. Lại trị chỉnh đốn là gốc, hiển nhiên là do nó có liên quan đến rất nhiều phương diện khác, tỷ như vấn đề đả kích những cường hào phạm pháp, truy kích cường hào nợ thuế. Từ đó cứ kéo dài ra, hai người lại vừa nhớ vừa viết một hồi, thì đến vấn đề khiến người ta đau đầu nhất.
Thành Khởi Vận nói:
- Kỳ thực, tất cả những cải cách này, đều là những mắt xích đan xen nhau, bổ trợ lẫn nhau. Lại trị chỉnh đốn, ảnh hưởng đến trưng thu thuế phú và pháp luật, về phương diện liêm chính, vấn đề đất đai lại lại liên quan đến hình danh liêm chính và trưng thu thuế phú. Nói đến vấn đề đất đai bị kẻ quyền quý thâu tóm, đây lại phải nhắc đến một phần công lao của Lưu Cẩn Lưu công công.
- Lão đo đạc đất đai là vì làm nổi bật chính tích cá nhân, vì lấy hết đất đai nằm trong khả năng để tranh công, hại rất nhiều người nhà tan cửa nát, nhưng hiện tại sau khi kiểm tra đối chiếu thực tế đất đai của những khổ chủ đó rồi trả về, số lượng đất đai còn lại thật sự là đúng số lượng.
- Quan lại thân sĩ bá tánh thật sự có bao nhiêu đất đai hợp pháp, bị lũ cường hào địa phương giấu nhẹm đi không báo cáo hoặc đã chiếm lấy bao nhiêu đất đai của triều đình, cũng đều đã ghi chép trong án rồi. Chỉ mỗi đất đai giấu giếm không báo thì đã có một trăm bốn mươi bẩy vạn khoảnh, có đến tám mươi vạn khoảnh trốn thuế, đúng không? Có những số liệu này, trưng thu thuế phú, thậm chí là là cải cách thuế phú cũng dễ dàng hơn nhiều.
Thành Khởi Vận hé miệng cười nói:
- Đại nhân đã liệt kê ra một số địa phương đang làm thăm dò thử phương pháp thuế phú hợp lý hơn, tỷ như "Lý giáp ngân" thi hành ở Ứng Thiên phủ, "Quân bình ngân" ở Chiết Giang, Quảng Đông, "Cương ngân" ở Phúc Kiến, còn có "Thập đoạn gấm" ở Giang Nam. Nhưng phương pháp thuế phú này phần lớn đã thay đổi thuế phú bằng hiện vật truyền thống, đổi thành dùng bạc để nộp, vừa thuận tiện cho triều đình trưng thu, mà vận chuyển hay bảo quản, cũng không cần lo lắng về khâu bảo quan cho khỏi bị hư hao.
- Nhưng thiếp cảm thấy trong những phương pháp này, vẫn là phương pháp gom nhiều loại thuế thành một hay nhất. Thực hiện phương pháp này, tất cả các lao dịch, tạp phí, đều nhập lại làm một thứ, sai dịch quy vào thuế ruộng, tất cả đều tính theo thuế ruộng đất, vừa không giảm ngạch, lại không tăng thuế, dân nghèo không có đất không cần nộp thuế, mà phú hào không thể được ưu tiên, lao dịch công bằng, nên sẽ không có ai oán thán là bất công nữa.
Dương Lăng gật đầu nói:
- Đúng, hơn nữa lấy ngân lượng thay cho thuế bằng hiện vật, lao dịch, sẽ mở rộng lưu thông tiền tệ, làm suy yếu mối quan hệ phụ thuộc của nông dân đối với các giai cấp khác, đồng thời những người bán hàng rong và thợ thủ công cũng được tự do. Việc này rất quan trọng đối với phát triển công thương.
Điều này, Dương Lăng đã âm thầm thảo luận với một vài đại thần trong triều, cũng đã được sự tán thành của bọn họ."Nhất Điều Tiên" pháp (tập hợp tất cả các loại thuế vào thuế đất), đảm bảo thuế phú triều đình sẽ ổn định, sẽ không khiến người giàu càng giàu, người nghèo càng nghèo, cho đến lúc túng quẫn tạo phản. Tăng cường phát triển công thương, nông dân có đất vui cày cấy, phú hộ trong thành vui bán buôn, cũng sẽ không xâm phạm quá nhiều đến lợi ích của quan lại thổ hào, nên tránh được phản đối mạnh liệt ở địa phương, làm cho tâm huyết của mình đổ sông đổ biển.
Nhất Điều Tiên pháp khiến cho quan viên khó có thể tiếp tục lợi dụng thuế phú để tham ô, giảm bớt gánh nặng cho dân nghèo, gia tăng thu vào cho triều đình, hơn nữa những quan lại thổ hào có thể tiếp nhận trong phạm vi. Đây là sách lược cải cách khá thiết thực, nếu như thật sự nóng nảy, muốn cưỡng ép trả đất cho dân, đánh thổ hào chia ruộng đất, thì mình trước tiên đã dẫn một đội ngũ lên núi đánh du kích rồi.
Hai người càng nói càng vui vẻ. Suy nghĩ trong lòng Dương Lăng cũng càng lúc càng rõ ràng, hắn vui mừng nói:
- Nói rất hay, hiện tại mấy người Tiêu Các lão, Dương Nhất Thanh có lẽ đã đặt nha môn. Ta đi vào thành xem thử, thảo luận với bọn họ một chút, hai ngày nữa sẽ trình lên Hoàng Thượng.
Dương Lăng chỉ lo mừng rỡ, mà không chú ý đến chuyện lời khuyên của A Đức Ny không được coi trọng khiến nàng oán giận. Thấy hắn vội vàng đứng dậy rời khỏi, A Đức Ny lại càng tỏ vẻ lạc lõng
- Kỳ thực Hoàng Thượng đã từng nhìn thấy những điều này, chính thức dâng thư chẳng qua chỉ là cho đưa ra một tín hiệu cho thiên hạ, một tín hiệu cải chế mà thôi. Bổn Quốc công phụ trách quét sạch cường đạo, an trí lưu dân, mắt thấy tai nghe ở những địa phương, biết rõ nếu không thể khiến nước giàu binh mạnh, bá tánh lạc nghiệp, thì diệt phỉ sẽ không hoàn thành được, mà không thể loại bỏ tệ nạn, thi hành chính sách mới, thì không thể nước giàu binh mạnh.
- Đương kim Hoàng Thượng tuổi còn trẻ, đang muốn có một phen thành tựu. Các vị đại nhân đều là thần tử trụ cột của nước nhà, xin hãy tận tâm tận lực, phát biểu ý kiến của mình, sau cùng ta lại cân nhắc một lần nữa về những tờ sớ can gián này, để giúp cho chính sách mới có thể thực hiện thuận lợi. Lưu đại nhân, ngài có ý kiến gì không?
Dương Lăng đảo mắt nhìn quanh, cao giọng nói. Trong phủ của Tiêu Phương, mấy vị đại nhân được mời đến ngồi xung quanh, đang tiến hành bước cân nhắc cuối cùng đối với chính sách cải cách mới.
Thứ mang lên bàn tiệc vĩnh viễn là món đã nấu xong. Việc thực hiện và quyết sách của một chính sách, chẳng thể nào không phải là kết quả có từ điều tra, nghiên cứu tỉ mỉ, cân bằng các thế lực, và được cân đối trước đó. Giống như hiện tại, Dương Đình Hòa và Dương Nhất Thanh không hợp, nhưng thế lực của y đã chiếm hai ghế trong Nội các, đối với việc thi hành quyết sách đều có ảnh hưởng hết sức quan trọng.
Mặc dù cải cách lại trị đã định cực kỳ có lợi đối với Nội các, sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của y, ngược lại còn tăng thêm quyền lợi, nhưng trước đó cứ giấu diếm không nói, gạt y ra ngoài khó tránh sẽ khiến y sinh lòng ngăn cách, cho nên Dương Lăng cũng mời Hộ bộ Thượng thư Lưu Trung đến. Y là người của Dương Đình nha, y có mặt, thì coi như bất cứ lúc nào cũng có thể kể lại cho Dương Đình Hòa về những việc y nghị định.
Ý kiến mà Lưu Trung nói ra, mọi người đều hiểu ngầm với nhau, đương nhiên biết đó chính là đại diện cho ý kiến của Dương Đình Hòa. Cho nên Dương Lăng nói xong, liền nhìn y đầu tiên, muốn biết ý kiến của Đại học sỹ Dương Đình Hòa, Lương Trữ.
Lưu Trung khiêm tốn cười nói:
- Lúc hạ quan ở Hàn Lâm viện, chỉ biết cổ vũ văn tự, đả kích tệ nạn đương thời, đối với một số chuyện chính trị thấy mà như không thấy, không ai thay đổi, cảm thấy không thể tin nổi, chỉ cho rằng quan trong triều không lo làm việc, không làm đúng chức vụ, mãi cho đến khi làm được chức Hộ bộ Thượng thư này, hữu tâm vô lực, bước đi gian nan, mới biết tệ nạn đã ăn sâu, không dứt khoát thì khó mà đạt hiệu quả.
- Trước mắt việc sát nhập đất đai quan trọng, lưu dân bốn phía, dịch họa nổi lên, quốc khố trống rỗng, chi phí thiếu thốn; bắc có Thát Đát, tây có Thanh Hải cũng có dị động, Cáp Mật đóng quân tiến thoái lưỡng nan, phía nam thổ ti tranh quyền đoạt lợi, cải chế cách tân là vô cùng cấp bách, hạ quan vô cùng tán đồng.
Đây chính là kết quả của việc phân phối quyền lực, nếu như không làm như vậy, ngay cả Dương Đình Hòa đồng ý trong lòng, cũng khó tránh khỏi bị làm khó dễ. Dương Lăng nghe vậy rất vui, chỉ nghe Lưu Trung nói:
- Hạ quan chỉ có một đề nghị, những người tay to mặt lớn chiếm cứ đất ruộng, có thể ép họ phân phát lại cho nông dân. Bên cạnh đó không quan tâm đất đai bọn họ chiếm cứ là bao nhiêu, bao gồm điền sản giấu diếm chưa đóng thuế, chỉ có thể tăng mạnh quản lý, thu thuế phạt tiền, mà không thể tịch thu chia cho bình dân.
- Nhất Điều Tiên pháp, có chỗ tốt cực lớn đối với bần dân, nhưng lại không hướng về nông dân không có đất. Lưu dân là căn nguyên của tai họa, lại không thể giải quyết vấn đề này. Hạ quan cho rằng, hiện tại công thương phát triển, mở thông đường biển, thông thương lẫn nhau, Quan Đông di dân có thể giải quyết một bộ phận lớn lưu dân, đất đai chiếm cứ đo đạc ra được còn có thể giải quyết một bộ phận.
- Ngoài ra, phải mời Binh bộ Lục đại nhân nhọc lòng hơn nữa, cải cách binh chế, triệt tiêu Vệ Sở, phải chú trọng quản lý đo đạc quân điền đồn điền thanh lý. Mảnh đất lớn này còn có thể sắp xếp cho một bộ phận lưu dân. Đến lúc đó, ngay cả có còn lưu dân đi nữa thì số lương vẫn hữu hạn không thể làm nên trò trống gì, trừ phi xuất hiện thiên tai nhân họa cực lớn, mà triều đình không đủ sức cứu tế. Bằng không cũng sẽ không xuất hiện cục diện, một người hô cao, vạn chúng hưởng ứng tạo phản đâu.
Dương Lăng khẽ vuốt cằm, thầm nghĩ: "Đây nhất định là trù tính của Dương Đình Hòa rồi. Người này rất thực tế, có thể bao quát lợi ích các phương diện, phản đối mà chính sách nhận được về các phương diện không quá kịch liệt, lại có thể giải quyết các vấn đề một cách hữu hiệu, quả nhiên là tài năng."
Lục Hoàn lo lắng nói:
- Nhất Điều Tiên pháp tuy sẽ khiến đám quyền thân bị chút tổn thất, nhưng các thân sỹ tiến bộ, thân sỹ giữ đúng pháp luật vốn dĩ là chiếu theo ruộng đất nộp thuế, cơ bản là không có ảnh hưởng gì. Vì dùng bạc nộp thuế, không cần dùng lượng lương thực tương đương do quan phủ quy định để nộp, bọn họ thu hoạch còn nhiều hơn, sẽ ủng hộ sách này. Hạ quan cho rằng ảnh hưởng chỉ là những thân hào quyền quý xưa nay giấu diếm đất để trốn thuế.
- Bộ phận này bất mãn là điều chắc chắn, nhưng thông qua chỉnh đốn lại trị có thể triệt tiêu sự cản trở của một bộ phận quan lại thế gia, lại thêm sự khuấy động của lần lưu dân tạo phản này, đại bộ phận bọn họ sẽ hưởng ứng. Phải nói rằng, người khó có thể chạm đến, có lẽ là vương hầu công khanh. Thật sự muốn thực hiện, Quốc công gia, nhất định có người sẽ động tay chân.
Dương Lăng thản nhiên cười nói:
- Điều này, ta đã đoán ra rồi. Một tay cầm cà rốt, một tay cầm gậy to. Ta vốn không trông cậy nói hay thương lượng hay khiến mọi người đồng ý. Có mấy người, chẳng qua chỉ cần giết gà dọa khỉ. Vậy thử đao từ đâu đây?
Lục Hoàn gật đầu nói:
- Quốc công gia diệt phỉ thì chỉnh đốn chính trị trước, đây là kế sách quét sạch từ gốc. Hoàng Thượng cũng có lòng làm, thì hạ quan đương nhiên dốc hết toàn lực. Chỉ có điều hiện tại đang dụng binh, lúc này cải cách binh chế dễ khiến quân tâm dao động, không thể không lo. Mà quân đội hủ bại, đồn điền thất thoát, lại liên quan đến lại trị và cải chế đất đai, việc trọng đại. Hạ quan lao tâm khổ tứ, cảm thấy có thể dùng cách dung hòa
Y vê râu nhìn Binh bộ Thượng thư tiền nhiệm Dương Nhất Thanh, nói:
- Về cải cách binh chế, hạ quan cho rằng có thể tách ra từ trong Thập Nhị Sơ, chậm rãi tiến hành, lửa chậm nấu nhừ, làm không ầm ĩ. Hiện tại sức chiến đấu của đoàn luyện các nơi không dưới Vệ Sở binh, thậm chí còn muốn mạnh hơn mấy phần. Triều đình không ngại đưa chiếu lệnh đến tuần phủ các nơi, mở rộng đoàn luyện, chỉnh đốn quân bị.
- Hiện tại chẳng phải lưu dân nổi lên bốn phía sao? Có thể thay đổi quy định đoàn luyện chỉ chiêu mộ binh sỹ bản địa, tiếp nhận một bộ phận binh sĩ là lưu dân nhập ngũ, như vậy tố chất binh sĩ được bảo đảm, lại khiến phản tặc không có lưu dân để dùng. Sau khi chiến sự kết thúc, lại tuyên bố đổi đồn điền nuôi binh làm mộ binh. Những Vệ Sở binh từ lâu đã không muốn tham gia quân ngũ thậm chí còn tìm cơ hội bỏ trốn đương nhiên sẽ vui vẻ phục tùng. Lỗ hổng binh sĩ trong quân đội cũng có thể lập tức dùng đoàn luyện binh đã huấn luyện để bổ sung vào. Mộ binh chế có thể tiến hành vừa nhanh vừa ổn định rồi.
Dương Nhất Thanh cầm binh đã lâu, trước giờ y luôn đảm nhiệm chức vụ trong đội ngũ biên quân, mà đại bộ phận biên quân dùng mộ binh chế, binh sĩ vốn dĩ không hạn chế là người bản địa, cho nên y suy nghĩ một hồi lâu, liền gật đầu tán thành nói:
- Từ nhi đồ chi, tòng dung binh bị (từ từ mà đạt được, ung dung chỉnh đốn quân), bổn quan cho rằng có thể làm được. Chỉ có điều phải lệnh cho Binh bị đạo, Đoàn luyện sứ các nơi phải gia tăng thăm dò binh sĩ, đừng chiêu mộ kẻ vô lại, có tiền án vào đội ngũ.
Lục Hoàn cười nói:
- Dương đại nhân yên tâm. Hiện tại loạn phỉ nổi lên bốn phía, sau khi đoàn luyện mới được thành lập, phải tham dự bao vây tiễu trừ lưu phỉ. Trong chiến sự, binh sĩ có đủ tư cách hay không, tự sẽ được khảo nghiệm phù hợp.
Tiêu Phương thấy không ai phản đối nữa, liền ghi chép điều này vào hồ sơ. Lễ bộ Thượng thư Vương Hoa nói:
- Đạo trị quốc không ngoài mưu cầu phú cường, nhưng sĩ tử văn nhân tôn sùng, đa phần là lý học Tống Chu, coi trọng tâm ngoại vô vật, bất giả ngoại cầu (ngoài tâm không có gì cả, không cần phải cầu từ bên ngoài). Những người thế này đã làm quan thì không trọng quốc kế dân sinh đâu. Bọn họ bốc phét, ba hoa, xem thường thực tế dân sinh, dùng lời nói suông làm hại đất nước.
- Hạ quan cho rằng, có thể tập trung một đám Hồng học đại nho, quan viên thoái sĩ, giáo huấn về hưng vong thịnh suy, đề xướng học thuyết pháp chế vô thường, cận dân vi yếu, cổ kim dị thế, tiện tục vi nghi (một học thuyết trong biến pháp của Trương Cư Chính), khiến quan viên các cấp từ bỏ quy tắc cũ, lấy nước giàu binh mạnh làm nhiệm vụ hàng đầu, quét sạch những lời lẽ suông vô dụng, đòi hỏi hiệu quả thực tế trong thực hành, đem trị học lý chính và giải quyết quốc kế dân sinh kết hợp lại, quét sạch áp lực dư luận.
Dương Lăng vui mừng đồng ý, nói:
- Đúng vậy, lời Vương Thượng thư nói chí phải. Thi hương năm nay, khoa cử phải gia tăng phần thời sách chính luận, giảm bớt thi từ ca phú, sau này đề thi cũng phải như vậy. Để có thể thi đậu, các học sinh sẽ chú trọng hiện thực, quan tâm đến dân sinh quốc sự. Theo ta thấy chuyện này mới là đại sự hàng đầu của Lễ bộ, nhất định phải thay đổi thói nói suống không thực tế từ tận gốc, bồi dưỡng nhiều năng thần có tài thật sự cho triều đình, mà không phải là đạo học hủ lậu.
Các quan viên hợp mưu hợp sức, trau chuốt lại sách lược tân chính chuẩn bị thi hành lần sau cùng, rồi mới cáo từ.
Tiêu Phương ghi chép lại ý kiến về các phương diện, các đoàn thể lợi ích, rồi nói với Dương Lăng:
- Quốc công, tân sách đưa ra không khó, khó ở chỗ thi hành. Sách lược chính trị lớn này, Nội các và Lục bộ còn có Khoa đạo đều tán đồng, hơn nữa Hoàng Thượng vô cùng ủng hộ, lại là vì giải quyết ảnh hưởng chính trị của các phương diện trong triều đình, lý do đường hoàng, người phản đối rất khó có thể đưa ý kiến phản đối của mình ra.
- Nhưng biến cách này, bất kể là điều nào cũng liên quan đến lợi ích của rất nhiều người. Mỗi con đường đều có mấy con cọp lớn. Cọp lớn chặn đường không bị đánh gục, người rảnh rỗi sẽ đều bắt chước theo. Vậy thì bất luận quốc sách có hoàn thiện bao nhiêu, cũng chỉ có một đường thua mà thôi.
Dương Lăng nói:
- Ừm, điều này ta đã tính trước. Đừng thấy Hoàng Thượng tán thành, Nội các thực hiện, mỗi con đường có vẻ đều rất thông thuận, nhưng khó tránh có vài người trong lòng ôm suy nghĩ cầu may, hơn nữa sẽ đẩy ra mấy đại nhân vật đến gánh vác. Cửa ải này, đừng bàn đến nữa.
- Ta vội vã trở về kinh đích thân tọa trấn. Một là lo lắng thế cục Thanh Hải, cũng chính là do suy nghĩ này. Mặc kệ hổ lớn gì, đều phải nghĩ cách quật ngã nó. Ta sẽ ở trong kinh chờ thêm mấy ngày nữa, đợi các sách lược bước đầu thi hành, ta lại đi Sơn Tây.
- Khụ khụ khụ!
Tiêu lão đầu ho khan mấy tiếng, ngữ diệu có hơi quái dị, nói:
- Có một con hổ lớn, nhất định sẽ bị người ta đẩy ra trước làn tên.
Dương Lăng trầm giọng nói:
- Là người nào?
- Đương kim Diễn Thánh Công gia.
Dương Lăng khẽ giật mình:
- Diễn Thánh Công? Y lại làm gì rồi à?
Loại thế gia đã không còn tiếp diễn được bao nhiêu triều đại này, giỏi nhất là khiến người khác đau đầu. Năm Thành Hóa bính tuất, tháng ba, Diễn Thánh Công Lỗ Hồng Tự cưỡng hiếp hơn bốn mươi phụ nữ, cưỡng sát bốn người bá tánh vô tội, chỉ bị đoạt tước vị, do đệ đệ thay thế, mà sau khi y sinh con trai, vẫn muốn đòi tước vị về. Giết người hại mạng, Hoàng Đế trừng phạt cũng là lẽ thường.
Chân nhân được kế thừa duy nhất của Sơn Tây Long Hổ sơn Trương Nguyên Cát đã vi phạm quyền hạn sử dụng khí vật, cướp đoạt phụ nữ, vì lợi lộc trước sau đã hại chết hơn bốn mươi bình dân bá tánh, trong đó có một nhà ba người đều bị mưu hại. Kết quả là cũng bị tước đi phong hiệu. Cái gì gọi là đặc quyền? Đặc biệt đến nỗi Hoàng Đế cho rằng ảnh hưởng đối với giang sơn của việc giết một phạm nhân còn hơn cả giữ gìn tôn nghiêm của luật pháp. Lực lượng thế gia như thế này đã lên đến tột cùng rồi.
Chỉ nghe Tiêu Phương nói:
- Diễn Thánh Công về quê còn chưa đến nửa tháng, hiện tại đã có hai vụ án cáo đến kinh. Tam ti không dám quản, Lục bộ không dám nhận, liền đẩy qua chỗ ta. Đây chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng triều đình muốn chỉnh đốn lại trị, muốn thanh lý ruộng đất bị chiếm, nhất định sẽ có người làm lớn chuyện này để khiến triều đình khó xử, cho nên phải sớm nghĩ cách.
Hóa ra sau khi Diễn Thanh Công hồi hương thấy phủ đệ bề bộn, lương thực đều tịch thu, thực căm hận không nguôi. Quãng thời gian đó, tính khí y không tốt lắm. Đất của nhà y, hơn trăm vạn mẫu thẳng cánh cò bay không thấy bờ, kéo dài đến mấy huyện.
Vừa lúc huyện lân cận có một mảnh đất của nhà y, ở giữa có một con rạch chảy qua, mà thượng du là mấy mươi mẫu đất của một tiểu địa chủ. Lúc này triều đình đã phân phát loại lương thực dễ trồng sớm chín, các nhà đều gấp rút gieo trồng. Khổng gia chê nguồn nước sử dụng không tiện, liền có gút mắc với hộ gia đình nọ, Khảo lão thái gia tính khí không tốt cho lắm chỉ cần bày mưu một chút, tự nhiên sẽ có người lấy tội danh qua lại với giặc phỉ hại dân đi kiếm chuyện với gia đình nọ, cuối cùng dùng cái giá vô cùng rẻ để cưỡng ép "mua" đất của nhà nọ.
Một chuyện khác là trong nhà y có tên hạ nhân, là tiểu quản gia có địa vị coi như cũng khá cao. Huynh đệ của y có công diệt phỉ trong quân, thăng làm Bách hộ, đi Khổng phủ thăm đại ca. Hai người nói rất vui vẻ, muốn về nhà thăm cha mẹ một chuyến, đi về chẳng qua chỉ mất thời gian không quá ba ngày. Khổng lão thái gia không đồng ý. Bách hộ kia đụng chạm mấy câu, lão thái gia giận dữ, lập tức lôi từ nhà bếp lên tận nhà trước, đè tên Bách hộ này và ca ca của gã xuống đất, đánh mỗi người sáu mươi đại côn, đánh đến hai người mình đầy thương tích.
Lúc này là thời chiến, tàn phỉ Sơn Đông còn chưa diệt sạch, chỗ dựa của quan binh khá vững chắc. Vị Tham tướng lãnh binh chính là Kiều Tứ Hải. Y đau lòng cho quan tướng của mình. Quan viên Sơn Đông Tam ti không dám quản, y liền cáo trạng lên kinh. Thuận theo đó, sẽ đem chuyện Khổng lão thái gia chiếm phi pháp hơn mười vạn mẫu đất mà quản gia nọ biết báo lên trên không sót chút nào.
Dương Lăng nghe rõ chân tướng, cẩn thận suy nghĩ một hồi, mơ hồ đã có một chủ ý hay để xử lý. Hắn cười mà như không, nói:
- Ta biết rồi. Chuyện này, dù sao cũng phải để các tướng sĩ đang đổ máu đánh trận dùng ác khí nói ra mới được. Về phần đất đai chiếm cứ không hợp pháp, cũng phải khiến cho y nhả ra. Chuyện này ta sẽ bắt đầu chuẩn bị ngay bây giờ, không thể để cho y trở thành chướng ngại vật cho công cuộc cải chế cách tân của ta.
Tiêu Các lão ừ một tiếng, lại nhỏ giọng nói:
- Quốc công gia, môn hạ có thể nghĩ đến, còn có một người, không chắc ngài có gan đủ lớn để lôi người đó ra.
Dương Lăng cười ha ha, lạnh nhạt nói:
- Nói đi, lại là con hổ lớn nào?
Tiêu Các lão lắc lắc đầu, nói:
- Vị này không phải là hổ, mà là rồng, một con rồng thật sự!
- Hả?
Dương Lăng trố mắt ra, nói:
- Đương kim Hoàng Thượng! Hoàng Thượng có cái thóp nào?
Tiêu Các lão kề tai hắn, nhỏ giọng thủ thỉ
Dương Lăng từ chỗ của Tiêu Phương trở về phủ, vào gian phòng của Ấu Nương. Hài tử chơi mệt hiện đang nằm ngủ, lộ ra đôi chân trần nhỏ bé mũm mĩm tựa như hai cái ngó sen, trên bụng đắp một tấm chăn mỏng, khuôn mặt đỏ hồng hây hây, chóp mũi lấm tấm mồ hôi.
Hai người ngồi ở bên giường thì thầm hồi lâu, Hàn Ấu Nương nghe xong câu chuyện của Dương Lăng lo lắng nói:
- Tướng công, đó là tấm gương của vạn thế, hậu duệ của Khổng Thánh, không thể khinh động được. Thiên hạ này chỗ nào mà chẳng có người đọc sách làm quan, đến lúc đó đắc tội với ai còn không biết chừng.
Dương Lăng cười nói:
- Nàng yên tâm đi, ta sẽ không hành động theo cảm tính đâu. Chuyện sảy ra với y đến thật là đúng lúc, ta muốn bố trí một chút, lợi dụng sức ảnh hưởng của Khổng gia nhà y để thổi thêm sức gió vào con thuyền cải cách, cũng coi như giúp y lấy công chuộc tội vậy.
Ta sẽ không làm to chuyện của y ra đâu, tuy nói quyền của y to cỡ nào cũng không thể bằng quyền lực của vua, có điều, chiếm đất của dân, ỷ lớn hiếp nhỏ là chuyện sảy ra nhan nhản, cũng không thể coi là chuyện to tát gì. Nếu thực sự đem y ra thử đao, quả thực có chút chuyện bé xé ra to, lại khiến y cảm thấy ta có ý đối phó y. Muốn thử đao, ta cũng sẽ không chọn miếng thịt khó chặt như vậy.
Trách người làm việc xấu không nên quá cay nghiệt, phải xem họ có thể tiếp thu đến đâu, khuyên người làm việc thiện không nên quá kỳ vọng, phải xem họ có thể làm được đến đâu. Tướng công đây hiểu đạo lý này chứ, ha ha! Không phải xem tướng công giống như tiểu tử chưa ráo máu đầu không hiểu sự đời đấy chứ.
Hàn Ấu Nương liếc mắt nhìn hắn một cái, cười như không cười, nói:
- Ồ? Tướng công rất hiểu sự đời sao, ha ha, vậy chuyện gì lại khiến cho cô nương A Đức Ny phải buồn như vậy chứ?
Dương Lăng ngẩn ra, hỏi ngược lại:
- Sao lại nói như vậy? Nàng ấy sao lại không vui chứ?
Ấu Nương khẽ cười nói:
- Thiếp thấy nàng ấy rầu rĩ không vui, suốt cả buổi chiều chỉ ở hậu hoa viên, nhìn thấy thiếp cũng chỉ miễn cưỡng giả bộ vui vẻ. Chuyện này nha, bọn thiếp khuyên không được, ngoại trừ chàng ra, nghĩ tới nghĩ lui cũng không tìm được nguyên nhân thứ hai. Ôi! Quê nhà của người ta xa ngoài vạn dặm, vậy mà vẫn toàn tâm toàn ý đi theo chàng. Chúng ta cũng không thể để người ta phải chịu ủy khuất. Chàng thấy có đúng không?
Dương Lăng cười khổ nói:
- Nàng đó nha, lúc nào cũng chỉ biết cảm thông người khác, tướng công của nàng là người như vậy sao? Thôi được rồi, ta đi xem sao, xem nàng ấy có tâm sự gì.
Ấu Nương "Ừ" một tiếng, ôn nhu khoác lên người hắn chiếc áo choàng nhẹ. Dương Lăng thản nhiên đi về hướng hậu viên.
Nơi này bởi vì tăng cường xây dựng phòng ốc, nên lại mở rộng thêm một mảnh lớn. Chỗ luyện võ của Ấu Nương được chuyển đến bên trên Noãn Diếu, còn mảnh đất bên cạnh Quả Lâm vẫn đang trồng rau xanh, còn có mấy luống ngô, khoai lang, khoai tây, cà chua và gần đây có thêm cây lạc là cây được du nhập vào Trung thổ sau khi đường đi Nam Dương được khai thông.
A Đức Ny đang ngồi trên một tảng đá bên cạnh luống cà chua, trong tay cầm một cây gỗ gõ một cách bâng quơ xuống mặt đất, vẻ mặt cô đơn, si ngốc xuất thần.
Dương Lăng rón ra rón rén đi đến bên cạnh của nàng, A Đức Ny cả kinh, bờ vai giật nhẹ một cái, nhìn thấy là hắn, vừa muốn đứng lên. Dương Lăng đã đặt tay lên bờ vai của nàng, mỉm cười ấn nàng ngồi xuống, dịu dàng nói:
- Làm sao vậy, có tâm sự gì ư?
A Đức Ny lắc lắc đầu, nói:
- Không có.
Dương Lăng vẫn chăm chú nhìn nàng, ánh mắt của A Đức Ny dần dần hoảng loạn lên, rốt cục, nàng hơi nghiêng đầu, than nhẹ một tiếng nói:
- Muội phát hiện ra, những hiểu biết của muội lại không có đất dụng võ ở Đại Minh, ngoại trừ chế tạo vũ khí giết người. Muội không hiểu về Đại Minh, rất nhiều sự việc cũng chỉ đành cho là đương nhiên phải vậy. Những điều muội tưởng là đúng, thì đôi khi lại trở thành hành vi rất buồn cười.
Dương Lăng hơi ngẩn ra, lập tức tỉnh ngộ:
- Hẳn là thiếu nữ thiên tài xinh đẹp người Tây Ban Nha này từ nhỏ đã là người cao ngạo được mọi người tán tụng, hơn nữa sự cao ngạo của nàng không phải đến từ dung mạo, mà là tài học của nàng. Tri thức mà nàng thông hiểu không chỉ vẻn vẹn giới hạn ở lĩnh vực vũ khí, nhưng hiện tại là ở Đại Minh, một khi rời khỏi chiến trường, rời khỏi lĩnh vực chế tạo vũ khí sở trường của nàng, những ý tưởng hết sức tinh vi và phức tạp đều bị phủ định một cách dễ dàng, khiến cho lòng tự trọng của nàng bị tổn thương đến mức chịu không nổi nữa rồi.
Dương Lăng cười rộ lên, vóc dáng của người phương Tây trưởng thành sớm, hơn nữa nàng nhiều lần trải qua biến cố, tính cách lại càng kiên cường độc lập, bản thân mình đã quên mất nàng vẫn còn là một tiểu cô nương, trên phương diện tâm lý vẫn còn rất yếu đuối. Không nghĩ tới nàng bởi vì một phen tranh luận thất bại với Thành Khởi Vận, bản thân hắn lại vội đi gặp vài vị trọng thần của triều đình, đối với nàng có chút sao nhãng, khiến cho nàng sinh ra cảm giác mất mát.
- Nha đầu ngốc, ai nói muội vô dụng hả! Ha ha..., chỉ có muội mới có ý nghĩ kỳ quái như vậy, nữ nhân Đại Minh chúng ta còn tin tưởng mù quáng rằng nữ tử mà vô tài thì hẳn là đức độ nữa đó, ha ha...
Dương Lăng vô cùng thân thiết ôm nàng vào trong lồng ngực cười phá lên.
A Đức Ny nhíu mày, rất chân thành nói:
- Muội nói thật mà, nữ công muội không biết, làm bếp muội không thạo, chốn quan trường muội cũng không giúp được huynh, đợi đến khi gả cho huynh, chẳng lẽ lại chuyên môn phụ trách chế tạo súng đạn cho Dương gia? Trên phương diện là một nữ nhân, muội quả thực là vô dụng!
- Ai nói muội vô dụng?
- Vậy hữu dụng ở chỗ nào?
- À thì...không tạo ra súng đạn, muội vẫn có thể tạo ra...người mà, trước tiên sinh cho Dương gia một hài nhi ngoại quốc đã!
A Đức Ny run người trong khoảnh khắc rồi mới có phản ứng, hai ráng mây hồng tức thời ửng lên trên đôi má của nàng, nàng ngượng ngùng đánh Dương Lăng hai cái, sau đó áp sát vào trong lồng ngực của hắn, u uẩn nói:
- Dương, không nên gạt muội, huynh thực sự yêu thích muội sao?
- Sao kỳ vậy! Chúng ta đã... như vậy như vậy rồi, nếu không thích muội, sao huynh lại làm... như thế như thế với muội?
Hai má A Đức Ny nóng bỏng, rúc vào lồng ngực của hắn, gắt giọng:
- Vậy thì chưa chắc, nam nhân các ngươi phong lưu chơi bời quen rồi. Muội... Muộn vốn cũng nghĩ rằng huynh nhất định sẽ yêu thích muội, nhưng tới nhà huynh rồi, muội mới phát hiện, không chỉ có Khởi Vận tỷ tỷ xinh đẹp tuyệt trần, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, còn có Ấu Nương phu nhân, mỗi người đều xinh đẹp đáng yêu, hơn nữa làn da của các nàng thật mềm thật trắng, người đã xinh đẹp, lại giỏi việc nội trợ, muội thật sự cảm thấy tự ti.
- Ha ha..., Muội cũng có sở trường của mình, thông minh, tự lập, thân hình bốc lửa... Hài...! Đừng lúc nào cũng nghĩ rằng nhất định phải trợ giúp được gì cho sự nghiệp của huynh thì mới chứng tỏ được giá trị của muội, hãy nghĩ đơn giản một chút. Muội xem, Ấu Nương, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, các nàng ấy không phải là rất vui vẻ sao?
A Đức Ny ôm chặt lấy hắn, hạ giọng nói:
- Dương, muội ở Viễn Đông, chỉ có thể yêu mình chàng, chỉ có mỗi chàng để mà nương tựa. Vận nhi tỷ tỷ nói, đây... chính là lo được lo mất vậy, muội cứ lo bản thân mình không xứng để được chàng yêu, hễ về tới kinh thành là thấy điểm nào cũng đều kém mấy vị phu nhân, khiến muội cảm thấy...cảm thấy chàng quả thực sẽ lãng phí cuộc đời nếu chung sống cùng với muội.
Dương Lăng vỗ trán một cái:
- Ôi trời ơi! Càng nói càng nghiêm trọng, không đến mức như vậy chứ? Ài... Muội mắc chứng tự kỷ phải không? Lãng phí cái gì chứ? Sinh mạng, nên lãng phí ở chỗ người đẹp và vật tốt, muội ở trong lòng của huynh, là bảo bối mà người khác không thể thay thế được, sao cứ phải tự làm khổ mình như vậy.
A Đức Ny nghe xong, đôi con ngươi như bảo thạch phát ra tia sáng rạng rỡ, vui vẻ nói:
- Dương, lời huynh nói là thật chứ?
Dương Lăng ôn nhu đem nàng ôm vào lồng ngực, nhẹ nhàng ngửi ngửi mái tóc của nàng nói:
- Đương nhiên là thật. Các nàng đều là bảo bối trong lòng ta. Ấu Nương là bến cảng của ta, mặc kệ ta ra khơi xa cỡ nào, đều phải trở về bên nàng ấy ta mới an tâm; Vận Nhi là trợ thủ của ta, cùng nàng ấy sóng vai đi thuyền, ta mới yên tâm; Tuyết Nhi là một loại quả vui vẻ, nàng ấy lúc nào cũng nghĩ ra mọi biện pháp để khiến ta vui; Ngọc Nhi là một dòng suối nước nóng, hai ba ngày không hưởng thụ một chút sự dịu dàng của nàng ấy, ta liền cảm thấy ngứa ngáy.
A Đức Ny nghe xong ánh mắt trở nên mông lung, ôn nhu khẽ nói:
- Dương, muội ở trong lòng huynh thì là cái gì?
- Nàng?
Đang ôm ấp nàng, Dương Lăng cũng bị câu hỏi này làm cho rạo rực, hắn ghé sát vào một bên tai của vưu vật rực lửa này, khe khẽ nói:
- Nàng...Nàng chính là một viên hợp hoan tán của ta. Nàng đến ngồi ở đây, khiến ngay cả cà chua ở trên kệ cũng trở nên gợi cảm rồi đó.
Từ 'Hợp Hoan Tán' này, hắn vốn tưởng rằng A Đức Ny nghe không hiểu, lại không biết rằng A Đức Ny ở trên thuyền hải tặc từng làm huấn luyện viên, những thuyền viên này hễ cứ lên bờ liền điên cuồng tầm hoan tác lạc, đến khi lên thuyền lại điên cuồng bàn tán về nữ nhân. Mưa dầm thấm lâu, đừng nói hợp hoan tán, những thứ mà nàng nghe được còn nhiều hơn thế. Nếu không một nữ tử chưa bao giờ đụng chạm với nam nhân như nàng, khi ở trong xe ngựa trên đường đi Tế Nam làm sao lại biết dùng loại phương pháp này để thỏa mãn hắn?
A Đức Ny nghe vậy thì vô cùng xấu hổ, nàng cắn môi nhõng nhẽo đánh hắn mấy cái, nghĩ tới cách hắn so sánh, lại không kìm nổi phì cười. Nét mặt A Đức Ny cuối cùng cũng khôi phục được thần thái vui vẻ, tự tin trở lại.
Nàng nhẹ nhàng quàng tay vào cổ của Dương Lăng, bằng vào thanh âm ôn nhu, ngọt ngào, thần thái kiều mỵ nói:
- Vậy thì...Dương thân yêu, chàng chuẩn bị khi nào thì ăn viên hợp hoan tán là ta đây thế?
Dương Lăng do dự một chút. Nếu là chiếu theo nghi lễ nạp thiếp, chỉ sợ nàng không quen, hơn nữa cô nhỏ này có lòng tự trọng rất cao, hiện tại có thể nhập gia tùy tục mà làm tới được bước này đã là quá khó cho nàng rồi, không thể để nàng quỳ bái từng vị phu nhân được, nhất là cái nghi lễ quỳ lạy kia, nàng chắc chắn không thể thích ứng.
Chi bằng, Dương Lăng linh cơ vừa động, thầm nghĩ:
- Tổ chức hôn lễ theo kiểu phương Tây được không nhỉ? Dường như đạo của phương Tây chỉ cho phép một vợ một chồng thôi. Kệ, nhập gia tùy tục, cha sứ mà không thay đổi quy củ, vậy cứ đợi năm trăm năm sau hãy quay lại đi, nam nhân thời đại này có ai mà chịu gia nhập đạo giáo của ông ta chứ. Hẳn là không thành vấn đề, đám cha sứ này ngay cả giáo điều 'Thượng Đế tạo ra thế giới' mà cũng dám sửa để có thể lấy lòng người dân Đại Minh, sửa mỗi cái nghi thức chủ trì hôn lễ cũng chẳng nhằm nhò gì.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng nói:
- Ờ..., mấy ngày nay đang bận quốc sự, như vậy đi, để lát nữa huynh nói với cha sứ Nhã Các Tư một tiếng, bảy ngày sau, sẽ tổ chức cho chúng ta một hôn lễ kiểu phương Tây, muội thấy thế nào?
Ráng chiều lan khắp trời, trong tiếng chim hót ve kêu, hai bóng người đang tựa vào nhau:
- Thật sao? Dương thân yêu!
- Quân tử nhất ngôn!
- Quất ngựa truy phong!
Lần này, A Đức Ny nghe không hiểu.
*************
Báo Viên, một gian phòng lớn, nơi Hoàng đế Chính Đức kết hợp tất cả chức năng làm việc, vui chơi, nghe kinh, thưởng thức ca múa vào làm một, một đội ngũ đông đảo gồm pháp vương, Phật sống, cao tăng, ăn mặc long trọng đang ngồi khoanh chân, mặc trên người tăng bào và pháp bào màu đỏ sẫm và vàng sẫm, trên đầu đội mũ có chóp đỏ của giới tăng ni hoặc mũ hộ pháp khảm bảo thạch của đạo gia.
Hoàng đế Chính Đức cũng đang mặc y phục làm phép, khoác áo cà sa, đội mũ ráng mây, ngồi ở vị trí trên cao, hai bên là hai cây nhang cỡ bự quý giá đang cháy, tỏa ra khói hương bện vào thân thể ngài, bảo tướng trang nghiêm, y hệt như Phật sống tại thế.
Ngài vốn cũng là phật, tự phong là Đại Khánh Pháp Vương Đại Định Tuệ Phật, được đám cao tăng này tôn làm thủ lĩnh. Thường ngày khi cùng đám Lạt Ma này đàm kinh luận đạo, ngài cũng ăn mặc như vậy, hiện tại đương nhiên là phải trang phục chỉnh tề.
Chỉ có điều, ngài hiện tại đang nói tới lại không phải là phật pháp, mà là chính sự.
- Vùng đất Đóa Cam (bao gồm Thanh Hải) kể từ sau khi Trung Sơn Vương Từ Đạt của bản triều tiễu trừ tàn dư của triều Nguyên là Vương Bảo Bảo, chính là biên giới của Đại Minh ta, triều đình đã thiết lập ra Hà Châu Vệ, Tây Ninh Vệ, An Định Vệ, A Đoan Vệ, Khúc Tiên Vệ và Hãn Đông Vệ, Tất Lý Vệ, là vì sự tiện lợi cho dân chúng, đồng thời cũng thể hiện sự tin tưởng của triều đình. Quan viên các Vệ này đều là do người đứng đầu các bộ tộc ở địa phương đảm nhiệm.
Hoàng đế của triều ta thậm chí còn coi trọng các Pháp Vương, Phật sống thuộc các giáo phái như Ninh Mã Ba (Hồng giáo) do Liên Hoa Sinh Đại Sĩ truyền lại, Cát Cử Ba (Bạch giáo), Tát Ca Ba (Hoa giáo), Cách Lỗ Ba (Hoàng giáo), tại Cù Đàm Tự, triều đình đã lập ra Tây Ninh Tăng Cương Ti, tại Dân Hòa Hoằng Hóa Tự cũng đã lập ra Tăng Cương Ti.
Đối với các thủ lĩnh địa phương, tăng lữ, triều đình ta còn gia tăng sự tôn kính, ngay cả đối với dân chúng địa phương, triều đình cũng nỗ lực để phát triển đồn điền, xây dựng trường học, khuếch trương buôn bán, ân đức không thể nói là không sâu dầy.
Nhưng hiện tại trẫm rất thất vọng, vô cùng thất vọng, vô cùng khiến trẫm thất vọng rồi. Trẫm giao Đóa Can cho các thủ lĩnh trông coi, Trẫm đem Thanh Hải Hổ phì nhiêu giao cho bọn họ để làm mục trường, bọn họ lại ngồi yên nhìn Gia Tư Bố, Bá Nhan Mãnh Khả trước sau xâm lấn. Hồ Thanh Hải là của Trẫm ban cho các bộ tộc của Đại Minh, chứ không phải là nơi để nuôi dưỡng loại ác lang như Bá Nhan Mãnh Khả.
Hôm nay, Trẫm mời gọi các vị Pháp vương, Phật sống, Đại đức cao tăng tới đây là muốn nói cho các vị biết, nếu các thủ lĩnh ở Đóa Cam đã không thể chống đỡ được sức tiến công của đám ác lang đó, giáo hóa phật pháp cũng không thể cảm hóa được hung tính và dã tâm của kẻ địch, vậy thì chỉ còn cách là Trẫm đóng vai Nộ mục Kim Cương (vị Kim cương có ánh mắt hung ác). Trẫm nhất định sẽ không ngồi yên nhìn Đóa Cam rơi vào tay Bá Nhan đâu.
Trẫm có trong tay đại quân hai trăm vạn, lẽ nào lại để Bá Nhan Mạnh Khả chiếm đoạt Thanh Hải làm của riêng được? Hắn nghĩ rằng Đại Minh đang có nội chiến nên có thể thừa cơ sao? Nực cười! Của cải của Trẫm rải khắp bốn phương, ngân khố quốc gia sung túc, đừng nói hai mặt khai chiến, cho dù có khai chiến thêm nhiều nơi nữa thì đã làm sao? Bắc đánh Bá Nhan, Đông bình Oa Khấu, Nam đuổi Phật Lang Cơ, chỉ một vài trận là thành công, hễ chiến là thằng, không gì không phá được.
Trẫm hiện giờ đang bị đám quân ô hợp không tới năm vạn người ở Hà Bắc, Sơn Đông cầm chân thật sao? Sơn Đông cướp, Hà Bắc trộm! Những địa phương này từ xưa đã vậy, chẳng có gì đáng phải bận tâm. Nếu các thủ lĩnh, Phật sống ở Thanh Hải không có năng lực đuổi đám ác lang Bá Nhan này đi, Trẫm thông cảm cho cái khó của các ngươi, Trẫm sẽ tự mình phát binh để đánh đuổi hoặc tiêu diệt bọn chúng.
Chính Đức uy phong lẫm lẫm, đảo mắt qua bốn phía, chỉ thấy các vị Phật sống, Pháp vương trên mặt lộ vẻ vẻ bất an, xì xào bàn tán, khóe miệng của y không khỏi lộ ra một tia cười ranh mãnh.
Địa khu Thanh Hải đa số là bộ lạc, giữa các bộ lạc đều không phục nhau. Chính vì nguyên nhân này, bọn họ trước sau không thể hình thành được một chính quyền tập trung có đủ sức mạnh, cho nên đối với Đại Minh càng thêm nhún nhường. Từ khi Đại Minh lập quốc đến nay, bọn họ hàng năm đều đến triều cống, hàng tháng đều lên triều nghị sự, tuy nói chỉ là hình thức, nhưng có được lợi ích thực sự lại chính là bọn họ, chí ít cũng thể hiện ra là mình phục tùng.
Triều đình ở địa khu Đóa Cam thực hiện chế độ tự trị. Tướng lĩnh và binh lính các Vệ đều là người của các bộ tộc ở địa phương. Bọn họ ở xa Hoàng đế, tự do tự tại, sao mà không thoải mái cho được? Nhất lại là có sự hợp nhất giữa chính trị và tôn giáo, nhóm người Pháp vương và Phật sống thân phận tôn quý, lại càng hiểu được chỗ lợi ích ở bên trong.
Triều đình phát binh? Đại quân Triều đình vừa đến, trong lúc chiến loạn, nhà của vườn tược của bọn họ sẽ ra sao? Mấu chốt nhất chính là, nếu như binh mã của các Vệ sở thuộc sự quản lý của các bộ tộc địa phương đã khiến cho Hoàng đế Đại Minh kiêm Quốc Khánh Pháp vương Tây Thiên Giác Đạo Viên Minh Tự tại Đại định Tuệ phật tiên sinh rất thất vọng, rất không vui, vậy đại quân của ngài một khi tiến vào Thanh Hải, liệu có rút đi nữa không?
Những Phật sống này đều thuộc tầng lớp cao nhất, được sinh ra trong một xã hội mà ở đó chính trị và tôn giáo là đồng nhất, suy xét vấn đề cũng vô cùng tỉ mỉ. Hậu quả lâu dài sau chiến tranh lập tức được họ cân nhắc tới.
Nếu chẳng may Hoàng đế tiểu Phật gia ngại việc đi tới đi lui quá tốn kém, chỉ mua vé một chiều, đánh trận xong nhân tiện hủy bỏ chức vụ chỉ huy của tộc trưởng thuộc sáu Vệ sở kia, đem binh mã cũng đổi thành kiêu binh mãnh tướng người Hán vừa mới thắng trận, toàn bộ đều lưu lại không đi nữa, khả năng này không phải là không có, kế "Mượn đường phạt Quắc" chẳng phải là một trong ba mươi sáu kế mà người Hán đã nghĩ ra sao.
Nếu Hoàng đế Đại Minh thật sự vừa phát cỏ vừa bắt thỏ, thực hiện cùng lúc hai mục tiêu, vậy thì bọn họ còn có thể duy ngã độc tôn ở Thanh Hải sao? Các vị lãnh tụ tôn giáo, mỗi người đều có lòng riêng, khẩn trương nhẩm bảng cửu chương, tính toán lợi ích được mất của bản thân mình.
Hoàng Đế Chính Đức đảo mắt, lại gia tăng thêm áp lực:
- Theo trẫm được biết, sau khi Bá Nhan xâm lược Hồ Thanh Hải, bộ lạc Ngõa Lạt và Hỏa Si đối với việc Bá Nhan chiếm giữ vùng đất vào sâu trong lãnh thổ của họ cảm thấy vô cùng bất an, các nước ở Tây Vực lo lắng một khi thế lực của Bá Nhan lớn mạnh sẽ tôn tính bọn họ, nên cũng đang tích cực liên kết, chuẩn bị phát binh tới Hồ Thanh Hải. Hồ Thanh Hải nha, sắp sửa biến thành nơi nước sôi lửa bỏng rồi, trẫm thương yêu bách tính, nhưng trẫm cũng không còn cách nào khác rồi.
Hôm nay mời chư vị Pháp vương, Phật sống đến, là muốn nói với các vị phải lập tức trở về, quản lý cho tốt tín đồ, đệ tử của mình, bảo bọn họ rời xa nơi nguy hiểm, tránh bị tai bay vạ gió trong khói lửa chiến tranh, thảm hoạ chiến tranh cũng khốc liệt như lửa vậy.
Đồng thời, trẫm thông báo trước cho các vị một quyết định của mình. Để phòng ngừa hàng hóa vật tư của Đại Minh trong quá trình vận chuyển bị Bá Nhan đoạn được, phòng ngừa tin tức tình báo về sự điều động quân đội của Đại Minh bị thám mã của Bá Nhan biết được, trước khi Bá Nhan Mãnh Khả rút khỏi Hồ Thanh Hải, trẫm sẽ phong tỏa biên giới, đình chỉ hết thảy hoạt động giao dịch chà và ngựa giữa các thành thị.
Cái gì? Các nước Tây Vực kết bè kết phái kéo tới đánh giết, bộ tộc Ngõa Lạt, Hỏa Si cũng muốn đến góp vui, Đại Minh cũng gấp rút xuất binh, lại còn đình chỉ giao thương giữa các thành thị. Đây đúng là biến Hồ Thanh Hải thành điểm tập kết của các phương rồi.
Vở 'Quần Anh Hội' này một khi đã xướng lên, vậy thì Thanh Hải liệu còn có thể bình yên nữa sao? Bản thân bọn họ đều là Trụ chì, Viện chủ, Pháp vương Phật sống, dưới trướng có cả ngàn người trực tiếp phục vụ, có thể chốn đi đâu được đây. Chỗ phồn hoa nhất thì lại gặp phải chiến tranh, giao thương lại bị đình chỉ, vậy bản thân mình phải dẫn người nhà tới nơi hoang vắng nghèo khó để hít gió Tây Bắc sao?
Đến lúc này đám Phật sống quả thật đã rất sốt ruột, bọn họ châu đầu ghé tai, lời nói vừa nhanh vừa gấp, sóng âm dần dần cao lên, cũng không biết là đang tranh luận những gì.
Hoàng Đế Chính Đức ngồi nghiêm trang, vẻ mặt từ bi bác ái, từ bi một lúc lâu, chư vị Phật gia phía dưới còn chưa thương lượng xong Tử Ngọ Dần Mão. Chính Đức liền thở dài một tiếng, thủ kết "Bất động căn bản ấn", tiến nhập vào trạng thái minh tưởng, động mà không động...
Cũng không biết trải qua bao lâu, tiếng nghị luận trong đại sảnh dần dần lắng xuống, xem ra đám Phật sống này đã đạt thành hiệp nghị rồi, Hoàng Đế Chính Đức vẫn đang ngồi đả tọa, đám Phật sống cũng không dám quấy rầy y, cũng may ngồi thiền đối với những người này thật sự không thành vấn đề, thế nên mọi người đều kết thủ ấn, dứt khoát cùng Hoàng thượng tu hành.
Hoàng đế Chính Đức cuối cùng cũng thu công, đám Phật sống cùng y tịnh tu, nhưng thực tế trong lòng lo lắng vạn phần kia, lập tức cũng đều tỉnh lại.
Một vài vị Phật sống ngồi ở hàng đầu, địa vị tôn quý thì thầm vài câu, Phật sống Ôn Già cung cung kính kính thi lễ nói:
- Đại Hoàng đế bệ hạ, chúng ta đều nhất trí cho rằng, lao sư viễn chinh, chiến hỏa liên miên đối với chúng sinh mà nói không phải là chuyện may mắn. Chúng tôi khẩn cầu xin được lập tức trở lại Đóa Cam, tận một phần tâm sức, dùng lực lượng của Phật môn chúng tôi để trục xuất Bá Nhan Mãnh Khả khỏi Hồ Thanh Hải. Xin Đại Hoàng đế bệ hạ hãy tạm hoãn việc phát binh, nếu như chúng tôi thất bại, lúc đó mới xuất binh cũng chưa muộn.
Hoàng Đế Chính Đức xúc động nói:
- Binh đao vốn vô tình. Trẫm hết lòng tin theo ngã phật, sao lại muốn sát sinh chứ? Nhưng Bá Nhan vào Thanh, hậu hoạn vô cùng, trẫm cũng vì bất đắc dĩ mà thôi. Chư vị Phật sống tình nguyện đi làm việc thiện có ý nghĩa như vậy, trẫm sao có thể không đồng ý đây? Như vậy đi, trẫm lập tức phái người hộ tống các vị Phật sống trở lại Thanh Hải, nếu như có thể biến can qua thành bạch ngọc đó là tốt nhất, còn nếu không thể, các vị Phật sống cũng đã tận tâm tận lực, chuyện còn lại cứ để cho trẫm gánh vác đi.
Chúng Phật sống nghe xong lộ ra vẻ mừng rỡ, làm gì còn tâm tư lưu lại, lập tức người người đáp ứng, cáo từ rời đi, lập tức chuẩn bị thu thập hành trang để trở về Thanh Hải.
Gian phòng rộng lớn như vậy trong thoáng chốc đã trống trơn, Hoàng đế Chính Đức rướn cổ ra nhìn trái nhìn phải, nhịn không nổi phì cười, y vội nghiêm mặt lại, một tay lật hướng lên trời, một tay hướng xuống đất, chỉ Thiên họa địa, bệ nghễ chúng sinh, miệng niệm "Úm Mạ Ni Bá Mê Hống...", tùy ý kết xuất Đại Uy Đức Kim Cương Ấn, quả thực là vô cùng thành thục.
Cửa bên chợt mở, hai bóng người nhanh như thiểm điện lướt vào bên trong, người đi đầu nhìn thấy bộ dạng của Chính Đức, cười khanh khách nói:
- Coi ngài kìa, diễn cũng giống lắm, ngồi tê cả chân rồi phải không, mau đứng dậy đi.
Đường Nhất Tiên vừa cười vừa đá đá chiếc bồ đoàn nơi Chính Đức đang ngồi, gắt giọng nói:
- Làm cái gì thế, mau đứng dậy đi.
Chính Đức mặt mày nhăn nhó nói:
- Đừng đụng vào, đừng đụng vào, cái bàn này mà để lâu cũng chịu không nổi nữa là, chân của ta tê rần rồi, ai da, nàng đừng có động vào ta.
Y nhăn nhó đặt chân xuống phản, cẩn thận ruỗi ra, vừa ngồi yên chờ cho huyết mạch lưu thông, vừa cười nói:
- Thế nào, ta diễn kịch cũng có nghề đấy chứ?
Dương Lăng tiến đến gần điện thi lễ:
- Thần tham kiến Hoàng thượng, Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn...
- Ta nói rồi Vạn Niên huynh, đã nói ở chỗ này không cần câu thúc nghi lễ quân thần, ta sắp thành hôn rồi, sau này, đây chính là nhà của ta và Nhất Tiên. Ở nơi này, ta sẽ sống một cách bình dị dân dã. Ái dà, huynh đừng giận ta, Ta không động đậy được, đúng là không thể so được với người cả đời ngồi đả tọa, ái, tê quá, huynh tự tìm chỗ ngồi đi.
Đường Nhất Tiên cười hì hì đem một cái ghế đến, Dương Lăng thấy Hoàng thượng ngồi trên bồ đoàn, bản thân mình ngồi ghế sẽ cao hơn y, liền cầm lấy một cái bồ đoàn, ngồi đối diện với Chính Đức, Đường Nhất Tiên thấy vậy, tự mình cũng cầm cái bồ đoàn đến, lại lấy thêm một đĩa nho từ trên thư án của vua đặt ở giữa ba người.
Chính Đức vỗ nhẹ lên đùi nói:
- Bá Nhan chiếm cứ Hồ Thanh Hải, cứu tế ở Sơn Đông, dân di cư khai hoang ở Liêu Đông, tên điên họ Triệu ở Sơn Tây chiêu binh mãi mã tại Trung Điều Sơn, lại còn Bạch Y quân ở Giang Nam...có sống có chết, có hy vọng và cả thất vọng, trẫm cũng vừa buồn lại vừa vui.
Dương Lăng thản nhiên cười nói:
- Chính là muốn bọn chúng Nam tiến. Miền Bắc cưỡi ngựa, miền Nam đi thuyền, một khi đến Giang Nam, bọn chúng sẽ phát hiện nơi ấy đích thực là giàu có vô cùng, nhưng ưu thế trên ngựa của bọn chúng cũng không còn nữa. Tận lực phân hóa chia rẽ, tập kích và làm suy yếu, sau ba bốn tháng thì đem đám tàn binh còn lại đuổi về phía Bắc. Trời đông giá rét mặt đất đóng băng, lại thiếu y phục và lương thực, từ lúc khởi sự đến khi cáo chung, bọn chúng ồn ào không được tới một năm, Hoàng thượng cứ việc yên tâm.
- Về phía Thanh Hải, cứ chờ xem năng lực của đám Phật sống kia thế nào, nếu bọn họ không giải quyết được Bá Nhan, khi đó chúng ta cũng đã giải quyết xong Bạch Y Đạo, có thể rảnh chân rảnh tay rồi. Chuyện ở Liêu Đông cũng không khó giải quyết, đây là chuyện cần giải quyết lâu dài, giống như dò đá để vượt sông vậy, phát hiện ra vấn đề gì thì giải quyết ngay vấn đề đó, triều đình chỉ cần quan tâm nhiều hơn, đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ hơn là được.
Về phần Triệu Toại ở Sơn Tây, đợi những việc ở đây có chút kết quả, thần muốn đích thân đi một chuyến, nếu có thể chiêu an được thì tốt, bằng không tuyệt đối không để cho y phát triển lớn mạnh. Đám phỉ lưu lạc này một khi có được căn cơ vững chắc, vậy thì rất khó để trấn áp, nhất định phải đuổi y đi.
Chính Đức gật gật đầu, vẻ mặt nghiêm chỉnh lại:
- Nói rất đúng. Trải qua việc này, những khiếm khuyết của công tác Triều chính đều đã bộc lộ ra, đây chẳng phải là một chuyện tốt sao. Giải quyết kịp thời có thể tránh cho mâu thuẫn bị đẩy lên cao trở nên gay gắt. Trẫm cũng muôn văn có thể an bang, võ có thể định quốc, làm nên một phen sự nghiệp, nhưng vấn đề của bản thân mình còn cả một đống chưa giải quyết xong, đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi, đó là tham vọng viễn vông, đúng là có thực mới vực được đạo.
Dương Lăng nghe vậy rất mừng, nói:
- Kiến giải của Hoàng thượng rất hay, thần và mấy vị đại nhân Nội các, Lục bộ thương nghị một phen, đem mười hai điều trong sách lược cải cách tinh giản xuống còn mười điều, cảm thấy đã vô cùng ổn thỏa rồi, chuẩn bị trong hai ngày tới trước hết cử người dâng tấu chương lên, trước tiên lộ ra một chút tin tức, để cho mọi người trong lòng có sự chuẩn bị, sau đó sẽ chính thức do Nội các tấu lên Hoàng thượng xin được thực thi. Thần xin nói trước một cách vắn tắt cho Hoàng thượng nghe kết quả thương nghị của chúng thần để ngài có sự cân nhắc.
Dương Lăng nhặt ra những điểm quan trọng nhất thuật lại một lượt, về phương diện cải cách chế độ thuế khóa, chúng quan viên sau khi trải qua thực hiện thí điểm các chính sách thuế mới tại địa phương, như "Lý Giáp Ngân", "Quân Bình Ngân", "Cương Ngân", "Thập Đoạn Gấm", cuối cùng chọn ra chính sách có tính ưu việt nhất là "Nhất Điều Tiên Pháp". Chính Đức nghe đến đó, phun ra một nhúm vỏ nho, liên tục gật đầu nói:
- Được! Được! Được! Những chính sách lạc hậu về thuế khóa của Đại Minh cũng nên sửa đổi rồi, Nhất Điều Tiên Pháp rất phù hợp.
Giang Sơn Đại Minh to lớn như vậy, Trẫm muốn dùng binh mà không có ngân lượng, Trẫm muốn cứu tế mà không có ngân lượng, đến quốc khố cũng vét sạch sành sanh, đáng thương đến mức độ như vậy, bách tính nghèo khổ vẫn còn nói bị thuế má đè tới nỗi không thở nổi, chẳng lẽ Đại Minh thật sự nghèo đến như vậy ư? Chỉ là vì đánh thuế không đúng đối tượng thôi, người giàu thì bỏ ra không tới một sợi lông bò, nhưng dân nghèo thì lại phải nộp thuế tương đương nửa năm thu nhập.
Kết quả là nuôi một số người não toàn những mỡ, đánh rắm cũng có thể chảy ra dầu. Ta nghe nói Giang Nam có phú thương muốn ăn cháo lưỡi vẹt, liền giết hơn một trăm con vẹt, loài vật cảnh này thực sự ăn rất ngon sao? Sĩ diện thôi. Muốn ăn râu cá liền mua về trăm con cá chép, chỉ cắt lấy râu để dùng, xa xỉ như vậy, trẫm còn chưa được hưởng nha.
Dương Lăng có chút kinh ngạc, phần kiến giải này điểm đúng chỗ mấu chốt, chỉ là không hiểu sao Hoàng thượng hiện tại lại nói nhiều từ thô tục như vậy, hơn nữa đối với chuyện trong dân gian lại biết cũng không ít, nếu nói là do Xưởng Vệ báo cho y biết, thì cũng không thể dùng những từ thô tục như vậy để nói với Hoàng thượng, đại bất kính nha.
Hắn đưa mắt nhìn Đường Nhất Tiên, trong lòng có chút hiểu ra:
- Tám chín phần mười là do cái miệng toang toác của tiểu ni tử này nói xằng nói bậy với Hoàng thượng rồi, Hoàng thượng cũng tình nguyện để cho nàng ta làm vậy, thích được người ta đối đãi với mình như đối với người thường, hai người đó, một tình nguyện đánh một tình nguyện bị đánh, bản thân mình cũng không phải là thày dạy giáo dục công dân, loại chuyện nhỏ nhặt này cũng chẳng đáng để mà can ngăn.
Những lời này nếu để cho đám người Vương Quỳnh, Lưu Kiện thậm chí hiện tại cả Dương Đình Hòa, Lương Trữ nghe thấy, chỉ sợ đều sẽ thất kinh biến sắc, lập tức tận lực khuyên ngăn, yêu cầu vua của một nước cần phải thận trọng từ lời nói đến hành vi cử chỉ, thậm chí sẽ phát động quần thần tổ chức một cuộc nghị sự lớn tại triều đình, kiến nghị Hoàng thượng cần kiểm điểm môt cách sâu sắc. Cũng chỉ có Dương Lăng căn bản không quá coi trọng chuyện này, Chính Đức ở trước mặt hắn càng thoải mái tự tại, làm người càng đỡ mệt mỏi, chẳng trách có chuyện gì cũng tình nguyện nói với hắn.
Dương Lăng vừa nói đến cải cách trong tổ chức quân đội, Chính Đức lúc này huyết mạch đã lưu thông, vỗ đùi tràn đầy đồng cảm nói:
- Điều này rất hay, có phải do Lục Hoàn đề xuất không? Ừm, chủ ý này của ông ta không tệ. Hiện tại liền chiếu theo phương pháp luyện binh trong dân, vừa giúp triều đình luyện binh lại không phải tốn chi phí của triều đình. Đợi đến thời điểm thích hợp, trực tiếp thay thế quân tại các Vệ sở. Đúng là một chủ ý hay nha, nói thực lòng, Trẫm hiện giờ không có tiền, chế độ trong quân đội lại không thể không sửa đổi, cần phải nghĩ ra biện pháp khôn khéo thôi.
Hiện tại hễ xem báo cáo của bộ Binh là Trẫm lại tức giận, nói là Trẫm có hai trăm vạn quân, nhưng trong đó có bao nhiêu người chỉ biết làm ruộng đây. Nếu không phải là ái khanh ngươi lãnh binh giúp Trẫm chút giận, không hiểu trận đó đã đánh ra cái con bà nó tình trạng gì rồi? Người muốn nhập ngũ thì lại không được tuyển, người không muốn nhập ngũ thì lại bị bắt phải đi, như vậy liệu có tâm lý đánh trận sao? Cần phải thay đổi!
Dương Lăng dần dần nói đến mục đích thực sự của hắn lần này, hắn nói tới tính nghiêm trọng và nguy hại của tình trạng thôn tính đất đai, sau đó liếc trộm Chính Đức một cái, thấy y vẫn đang nghe một cách nghiêm túc, Dương Lăng thở dài một hơi, lo lắng nói:
- Hoàng thượng, có sự ủng hộ của Hoàng thượng, việc cải cách nhất định có thể được phê duyệt, lực cản trong triều cũng sẽ không quá lớn, điều thần lo lắng chính là, sau khi phê duyệt mười điều cải cách này, việc triển khai thực hiện liệu có được nghiêm túc hay không?
Những người thôn tính đất đai, không phú thì quý, bảo bọn họ nhả miếng thịt đã ở trong miệng ra, ai mà cam tâm chứ? Đám người quyền quý đó lại có lớn có nhỏ, tất sẽ bắt trước so bì với nhau. Người đại hiển đại quý không chịu tuân theo chế độ của triều đình, người tiểu hiển tiểu quý sẽ học theo, chính lệnh của triều đình ban bố xuống sẽ bị đem gác xó, chỉ trở thành một kiện công văn được lưu giữ mà thôi, như vậy chẳng phải là kiếm củi ba năm thiêu đốt một giờ sao.
Chính Đức đảo mắt, cười ranh mãnh nói:
- Ha ha, muốn Trẫm nghe mười điều cải cách? Sau khi tấu chương trình lên chẳng lẽ Trẫm lại không xem được sao? Biết ngay là khanh có chủ ý khác. Khanh yên tâm đi, không cần biết hắn là Vương Hầu Khanh Tướng, hay là Hoàng thân Quốc thích, hoặc giả là quan viên nhất nhị phẩm, nếu dám không tuân chính lệnh, Trẫm sẽ đứng sau chống lưng cho khanh, nhất loạt trừng trị!
Dương Lăng vẻ mặt đau khổ, lắc đầu nói:
- Vô ích thôi. Nếu người này... chức quan quá lớn, quyền hành quá lớn, thì dù Hoàng thượng có chống lưng, thần cũng không dám đắc tội hắn.
- Ha...!
Chính Đức bật cười:
- Được rồi, khanh cũng đừng vòng vo với Trẫm nữa, Khanh cứ chỉ đích danh là ai, Trẫm muốn xem xem là ai mà oai phong như vậy.
- Người này, chính là Hoàng thượng ngài!
- Trẫm?
Hoàng đế Chính Đức ngẩn người, hơi giận:
- Trẫm có thôn tính đất đai sao? Đất trong thiên hạ đều là của vua, Trẫm cần gì phải thôn tính của ai? Trẫm chỉ muốn mở mang bờ cõi, dùng sức mạnh đối với ngoại bang, chỉ là chưa đúng thời điểm thôi. Khanh nói đi, Trẫm như thế nào lại trở thành kẻ đầu sỏ thôn tính đất đai vậy?
Đường Nhất Tiên thấy vậy, vội vàng cầm lấy hai chùm nho đưa cho mỗi người:
- Nào nào, ăn nho đi.
Không ai để ý tới cô ta. Dương Lăng nhìn thẳng vào mắt của Chính Đức, rất chân thành nói:
- Hoàng Trang (Trang viên của Hoàng gia)! Hoàng thượng đã quên mất Hoàng Trang rồi sao?
- Hoàng Trang?
Hoàng đế Chính Đức kinh ngạc không hiểu:
- Khanh nói tới Hoàng Trang? Khanh thử nói xem Hoàng Trang như thế nào mà lại tính là thôn tính đất đai hả?
Dương Lăng nói:
- Hoàng thượng lựa chọn Hoàng Trang cho tới nay đã có hai mươi mốt nơi được khoanh vùng, ước tính khoảng hai triệu mẫu đất, Hoàng thượng như thế, các Phiên Vương ở địa phương lại càng như vậy, Phiên Vương trên lãnh địa của mình thông qua sự chỉ định của Hoàng thất, mỗi người đều sở hữu không dưới mấy trăm vạn mẫu đất, số lượng khổng lồ, khiến người người kinh sợ,...
Hoàng đế Chính Đức tức đến sắp bể phổi, nhất thời có chút bi phẫn, y quát lớn:
- Trẫm còn gây ra tội ác tày trời cơ đấy! Khanh đã từng thay Trẫm quản lý bảy cái Hoàng Trang, chắc cũng biết sự tình trong đó, cái gì mà Trẫm sở hữu mấy vạn hecta đất, rồi Phiên Vương sở hữu bao nhiêu vạn hecta đất, đây đơn thuần chỉ là tin đồn bậy bạ, cụ thể thế nào, chẳng lẽ Khanh lại không rõ sao?
Đường Nhất Tiên căng tròn con mắt, liếc bên trái một cái, liếc bên phải một cái, thấy hai huynh đệ sắp tranh luận đến mức đổ vỡ rồi, vội vàng lại cầm lấy hai chùm nho khuyên nhủ:
- Nào nào, ăn nho đi.
Hai người vẫn không hề để ý tới nàng ta, Đường Nhất Tiên oán hận ngắt một quả nho xuống, ném vào miệng.
Dương Lăng khẽ cười nói:
- Khi thần thay mặt Hoàng thượng quản lý Hoàng Trang, ngài cũng biết, đấy chẳng qua chỉ là để ngụy trang, có điều lần này vì sự cải cách, thần đã điều tra lại một cách tỉ mỉ, hiện tại đương nhiên đã hiểu.
Chi phí của Hoàng thất, vương thất, vốn là do tài chính của triều đình chi trả, số tiền này từ đâu mà có? Từ tiền nộp thuế của dân chúng. Dân chúng mọi nơi đều phải nộp thuế, đây là điều hiển nhiên. Những vùng đất mà Phiên Vương được phong, Hoàng thất chỉ định (hay còn gọi là Vương Điền), không phải có ý nghĩa ở chỗ vị Vương gia này có bao nhiêu ruộng đất, mà là ở chỗ thuế thu được trên những vùng đất này không phải giao nộp lại cho Hộ bộ, mà do người của Vương thất cử ra để quản lý, trực tiếp do Vương thất sử dụng. Hoàng Trang của Hoàng thượng cũng là như vậy.
Chi tiêu của Hoàng thất, Vương thất vốn chính là do tài chính của triều đình cung ứng, phần đất đai được quy hoạch thành Hoàng Trang, phía Hộ bộ liền căn cứ vào số lượng để cắt giảm tiền cung ứng, sự tồn tại của Hoàng Trang và Vương Trang, chỉ là khiến tiền thuế của dân chúng không phải nộp qua khâu trung gian là Hộ bộ, mà trực tiếp giao nộp cho đối tượng vốn nên hưởng dụng nó là Hoàng thất, Vương thất sử dụng.
Nộp Hoàng thuế, Vương thuế, thì không phải nộp Quan thuế, không hề có sự trùng lặp về thu thuế. Vì vậy, gọi đó là Quan thuế hay Hoàng thuế cũng đều như nhau, chỉ khác ở khâu quản lý, đối với bách tính mà nói, kỳ thực không có gì khác biệt.
Sắc mặt của Chính Đức từ từ dịu xuống, Dương Lăng tiếp tục nói:
- Hơn nữa, thuế đất mà Hoàng trang, Vương trang trưng thu được ấn định theo tỉ lệ là một mẫu đất thu ba phần thuế, so với tỉ lệ trưng thu bình thường của địa chủ còn ít hơn một chút, gánh nặng mà nông dân canh tác trên ruộng của Hoàng trang phải chịu nhỏ hơn so với nông dân canh tác trên ruộng đất thông thường.
Hoàng đế Chính Đức hừ một tiếng, giọng buồn bực nói:
- Khanh biết rồi mà còn nói như vậy? Ban nãy đúng là làm Trẫm tức chết mà.
Dương Lăng khẽ mỉm cười, nói:
- Hoàng thất dù thế nào cũng cần phải có nguồn thu để ứng phó với chi tiêu hàng ngày, không thu từ Hoàng trang, thì lại thu từ Quan địa (đất đai do quan lại quản lý), không trực tiếp thu, thì do Hộ bộ cấp, như vậy thì đất đặt tên là Hoàng trang và Quan địa có gì khác biệt?
Thuế thu trên một triệu mẫu đất mỗi năm ước khoảng một vạn lượng, một số Thân hào, Thương nhân buôn muối, Thương nhân buôn bán trên biển, mỗi năm kiếm lời lớn hơn rất nhiều so với con số này. Thuế mà Hoàng gia thu nạp xem ra cũng không thể khiến người nghe cảm thấy kinh sợ, cũng không thể tính là thôn tính đất đai, khiến dân chúng không có đường sống.
- Nhưng...,
Dương Lăng trở nên nghiêm túc, nói:
- Dân chúng thấp cổ bé họng ai sẽ tính toán những khu đất này một năm phải nộp bao nhiêu? Hoàng gia trưng thu bao nhiêu? Bọn họ chỉ nghe nói hoàng gia tự mình giữ lấy mấy trăm vạn mẫu đất, đã cảm thấy kinh thế hãi tục rồi. Hơn nữa nghe nhầm đồn bậy, ăn nói bừa bãi, vốn là chuyện thường tính của con người. Người dân cũng thích được trò chuyện tán gẫu, thổi phồng sự việc.
Thân sĩ thì lại thích những tin truyền bá như vậy, khi truyền bá những tin như vậy, chính là tạo ra cái cớ để bọn họ tiến hành thôn tính. Người truyền tin càng nhiều, người tin vào nó cũng sẽ càng nhiều, thậm chí còn lưu truyền hậu thế, khiến cho người đời sau không rõ chân tướng sự việc sau khi nghe rồi cũng cảm thấy lòng đầy căm phẫn.
Những lời thần vừa nói vẫn chỉ là tình huống bình thường, trong điều kiện bình thường, không hề có chuyện bức hại nhà nông, việc khoanh vùng lựa chọn Hoàng Trang, Vương Trang đã vô cùng bất lợi đối với Hoàng thất như vậy. Vậy rốt cuộc liệu có chuyện Hoàng Trang bóc lột hay không? Những nông dân canh tác trên ruộng đất của Hoàng Trang có thật sự được nộp thuế ít hơn so với nông dân canh tác trên đất của Quan phủ quản lý hay không, được ưu đãi thực sự hay không? Kỳ thực là rất ít, vô cùng ít.
Hắn đón lấy ánh mắt có phần kinh ngạc của Chính Đức, giải thích:
- Nguyên nhân rất đơn giản, vì Hoàng Trang nằm ngoài sự quản lý của Quan phủ, tự lập ra bộ máy nhân sự để quản lý. Tiền công của những người này đến từ đâu? Lông cừu được lấy từ thân cừu (mỡ nó rán nó), cuối cùng vẫn là lấy từ tiền thuế đất. Vì thế công thêm tiền công của bọn họ, thì thuế đất từ Hoàng Trang đã không còn thấp hơn so với thuế đất giao nộp cho Quan phủ nữa rồi.
Ngoài ra, những người làm quản sự của Hoàng Trang, các sư gia, chính là đang làm thay nhiệm vụ của Quan phủ. Bọn họ, trên thì đối diện với nhóm Hoàng thân Quốc thích thân phận cao quý mà những người tá điền vĩnh viễn không có khả năng giáp mặt, dưới thì đối diện với những tá điền canh tác trên ruộng đất của Hoàng Trang. Địa tô nhiều hay ít chẳng phải là xuất phát từ một câu nói của bọn họ sao? Bọn họ có điều kiện thuận lợi như vậy, có thể không tham sao?
Hoàng thượng cho rằng bản thân mình định ra thuế suất là một mẫu đất ba phần thuế thì dân chúng sẽ được bảy phần lợi tức, nhưng trên thực tế, trăm họ cực khổ cả một năm, chân chính nhận về đến ba phần còn chưa được, phần lớn nhất ở giữa đó bị tầng tầng quản sự, sư gia và đám tay chân tham ô chia nhau hết. Dân chúng có biết là ai là người bóc lột bọn họ như vậy không? Món nợ này đương nhiên là tính cho Hoàng thất rồi.
Ngữ khí của Dương Lăng trầm trọng hẳn lên, tiếp tục nói:
- Thần nói đây mới chỉ là Hoàng Trang của ngài, về phần Phiên Vương các nơi... Khụ khụ! Thần không dám giấu Hoàng thượng, Ngài chắc cũng biết, trong các Phiên Vương cũng có kẻ hiền người ngu, không phải ai cũng biết thương xót dân chúng địa phương. Nếu Phiên Vương nào đó bản thân ham tiền tài, liều mạng áp bức, nâng cao thuế suất, cộng thêm tầng tầng quản sự ở giữa bóc lột, dân chúng năm được mùa thu về may ra cũng chỉ dư được một phần lợi tức, miễn cưỡng có thể duy trì cuộc sống, một khi thiên tai mất mùa, bọn họ nếu không làm dân lưu vong, không tạo phản, làm sao có thể sống được?
Chính Đức nghe đến đây, liền hít vào một hơi khí lạnh, kinh ngạc nói:
- Lại...lại có thể có chuyện này sao?
Dương Lăng nghiêm nghị nói:
- Đúng vậy, cho nên Hoàng Trang, Vương Trang là kiểu thôn tính đất đai nhưng không tước đoạt quyền sở hữu đất đai, còn kiểu thôn tính của đám thân hào quyền quý bọn họ là ngay cả quyền sở hữu đất đai cũng tước đoạt nốt, thoạt nhìn có một chút khác biệt, kỳ thật hai loại này đều nguy hại độc nhất vô nhị.
Chính Đức nghe xong cúi đầu không nói, vẻ mặt vô cùng uể oải.
Y tuy rằng thích chơi đùa càn quấy, nhưng từ trong đáy lòng cũng muốn làm một minh quân, làm một Hoàng đế tốt, không thể tưởng được việc mình trực tiếp lập ra Hoàng trang để tạo nguồn cung ứng chi tiêu của Hoàng cung, trung gian bị người tầng tầng lợi dụng để bóc lột, không ngờ lại làm hại dân chúng nhiều như vậy, lần này dân lưu vong tạo phản, nói không chừng có một phần dân chúng là bị mình bức bách, cho nên trong lòng vô cùng khổ sở.
Khóe miệng đột nhiên mát lạnh, từ trong trầm tư Chính Đức đảo mắt nhìn sang, chỉ thấy Đường Nhất Tiên đang cầm một trái nho, đưa đến bên miệng của y, ôn nhu cười với y, trong mắt chan chứa sự an ủi, cổ vũ. Trong lòng Chính Đức cảm thấy ngòn ngọt, bất giác mở to miệng, đem trái nho kia ngậm vào miệng.
Đường Nhất Tiên lại đưa cho Dương Lăng một chùm nho, sẵng giọng:
- Đại ca, huynh đã có biện pháp hay thì nói đi, chớ để Hoàng thượng phải khổ sở.
Chính Đức ánh mắt sáng lên, nói:
- Dương khanh, khanh có kế sách gì hay không?
Dương Lăng nói:
- Không cần kế sách gì cả. Chỉ cần bỏ hết nhân viên quản sự, tiền thuế đất của Hoàng Trang Vương trang vẫn tiến hành thu và giao cho Hộ bộ quản lý, cuối năm Hộ bộ kết toán trích ra để giải ngân cho việc chi tiêu. Về danh mục đất đai, cần thay thế sổ mới và đổi tên thành Quan địa, không đặt tên là Hoàng trang nữa là được.
Chính Đức trố mắt nói:
- Chỉ đơn giản như vậy sao?
Dương Lăng cười nói:
- Đối với Hoàng thượng mà nói thì đúng là đơn giản, đối với người thay Hoàng thượng quản lý điền trang mà nói, lại cực kỳ khó khăn. Thần đang làm đây là cắt đứt đường tài lộc của người ta, tin rằng không đến bao lâu, sẽ có tấu chương tố lên Hoàng thượng về việc hoàn trả Hoàng trang sai lầm chồng chất như thế nào, rồi Hộ bộ giải ngân chậm chễ và tham ô ra sao, chi bằng Hoàng thượng tự mình trông coi đất đai, đề nghị điều trần chắc phải phủ kín Long án của ngài mất.
Chính Đức ngẩn ra, bật cười nói:
- Không vấn đề gì, để trẫm xem ai đến, kẻ nói với trẫm như vậy khẳng định là phường đại tham ô, trẫm kêu Xưởng Vệ trước tiên tra xét tổ tôn ba đời, họ hàng hang hốc nhà hắn, nếu quả thật không có tham ô, lại đến khuyên can cũng chưa muộn.
Dương Lăng nói:
- Còn có một chỗ khó xử nữa, chính là Vương trang. Về mặt lý thuyết, bổng lộc mà Hoàng gia ban cho Vương thất không hề giảm bớt, chỉ là chuyển đổi từ trực tiếp thu thành quan phủ cấp cho. Nhưng những Phiên Vương tự ý nâng cao thuế suất để vơ vét kiếm lời tất nhiên cũng muốn phản đối, có điều, lý do để phản đối này thì không thể nói ra miệng.
Hoàng thượng đi tiên phong trong việc trả lại đất đai, làm gương cho người khác, những Phiên Vương hiền đức tự khắc sẽ noi theo bệ hạ, một số Phiên Vương có lòng tham nhưng biết cân nhắc nặng nhẹ, không có người chống lưng, cũng sẽ tuân theo mệnh lệnh của Hoàng thượng. Chỉ sợ một số Phiên Vương to gan lớn mật, kiên quyết không trả lại ruộng đất, cản trở việc thi hành chính sách mới. Bọn họ không trả, vậy thì các công hầu khanh tướng cũng sẽ không trả, cường hào thân sĩ cũng sẽ không trả. Vấn đề thôn tính đất đai liền khó giải quyết rồi.
Hoàng đế Chính Đức cười lạnh nói:
- Không tới phiên bọn họ quyết định, triều đình hoạch định một năm cho bọn họ bốn vạn lạc bạc tiền thuế từ bốn triệu mẫu đất, hiện tại đất đai qui về Hộ bộ quản lý, một năm vẫn cấp cho bọn họ bốn vạn lượng, bọn họ lấy lý do gì để bất tuân thánh chỉ? Những trò xấu xa của bọn họ chẳng lẽ lại đem ra nói với Trẫm? Khanh yên tâm, cửa ải này, Trẫm cầm chắc! Trẫm lập tức hạ chỉ từ bỏ Hoàng trang, trả lại Hộ bộ.
- Chậm đã, Hoàng thượng chậm đã.
Dương Lăng vội vàng nói:
- Hiện tại không vội, việc từ bỏ Hoàng trang phải chọn thời điểm thích hợp thì mới hiệu quả tốt.
Chính Đức ngây ra nói:
- Việc này... mà cũng phải chọn ngày hoàng đạo sao?
Dương Lăng lộ ra vẻ tinh quái, ghé sát tai Chính Đức nói thầm mấy câu. Chính Đức vỗ đùi mừng rỡ, mặt mày hớn hở nói:
- Hay! Hay! Hay! Cái này hay, Trẫm rất muốn xem dáng vẻ chật vật không chịu nổi của bọn họ, ha ha!
Y cười gian hai tiếng nói:
- Chẳng phải là đào sẵn cái hố cho người ta nhảy xuống sao, Trẫm chính là thích lừa người, hô hô hô, chuyện này thì Trẫm chính là chuyên gia.
Y duỗi duỗi chân, đứng lên nói:
- Trời nóng quá, chuồng thú ở đằng sau bốc mùi khó chịu, hôm nay không xem đấu hổ nữa, đi, chúng ta...
- Chậm đã Hoàng thượng, thần còn có việc phải khởi tấu với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng duyệt rồi, thần còn phải xin Hoàng thượng hạ chỉ.
Chính Đức nghi hoặc nói:
- Còn chuyện đại sự gì nữa?
Dương Lăng đem chuyện của Diễn Thánh Công kể lại một lượt. Chính Đức cau mày nói:
- Chiếm đất của dân, những cường hào địa chủ như vậy số lượng cũng không ít, quốc cữu Trương Hạc Linh vì chuyện này mà không chỉ một lần bị đám người Lý Đông Dương buộc tội, thân phận của ông ta lại khá đặc thù, vì một chuyện nhỏ thế này mà khiển trách nặng, sợ khiến người ta chê cười. Công tước đánh mệnh quan triều đình, vốn là một chuyện không nhỏ, đáng tiếc...
Chính Đức cười khổ nói:
- Nếu Dương khanh ngươi hiện tại không được giao nhiệm vụ, lại tự tiện tra tấn mệnh quan triều đình, thì mắc phải tội lớn rồi. Nhưng duy chỉ có Diễn Thánh Công là có thể làm vậy, đây là quy củ truyền lại từ đời Tống, phủ của ông ta tam Đường đủ cả, ngay cả nhà tù cũng có, còn tuyển mộ cả quân lính riêng. Trẫm nhìn cũng không thuận mắt, nhưng nhiều lắm cũng chỉ có thể trách ông ta dùng hình quá nặng, còn có thể như thế nào nữa? Nếu như hạ một đạo thánh chỉ, cũng chỉ có thể giáo huấn hai câu, chẳng phải trở thành trò cười à?
Dương Lăng cười nói:
- Thần biết chuyện này nói lớn không lớn nói nhỏ không nhỏ, Hoàng thượng mà ra mặt thì có vẻ chuyện bé xé ra to, Hoàng thượng không ra mặt thì không ai dám quản lý ông ta. Chuyện này nếu cứ mặc kệ, đến khi thực hiện cải cách nhất định sẽ có người đưa ông ta ra làm bia đỡ đan, chi bằng xuống tay trước giải quyết luôn.
Thần muốn mượn chuyện này để buộc ông ta cũng phải vì sự cải cách của triều đình mà có sự đóng góp và cống hiến. Diễn Thánh Công vẫn còn có chút lực hiệu triệu đấy, hơn nữa ông ta là hậu duệ của Khổng Thánh, nếu ông ta đồng ý đứng lên hô hào, nếu không có tác dụng lớn thì chí ít cũng khiến cho đám hủ nho, học sĩ thủ cựu phải ngậm miệng, khiến bên tai Hoàng thượng thanh tĩnh, bớt ồn ào hơn.
- Hả? Vậy thì khanh muốn làm như thế nào?
Dương Lăng lại ghé sát tai giải thích một phen, Hoàng đế Chính Đức liên tục gật đầu nói:
- Được! Được! Được! Khanh muốn có thánh chỉ, trẫm liền viết cho khanh.
Y đấm nhẹ lên ngực Dương Lăng một quyền, cười ha hả nói:
- Khanh cũng không tồi, rất biết lừa người nha, chủ ý xấu xa cũng không ít.
- Ha ha ha ha...
Hai người đang cười một cách kỳ quái, Đường Nhất Tiên hai tay chống lên eo thon, oán hận lườm bọn hắn một cái nói:
- Nhìn các huynh xem, ra dáng một chút có được không? Các huynh một người là Hoàng thượng, một người là Quốc công, lại ở đây bàn cách để lừa người ta, không thấy xấu hổ, ngược lại cảm thấy đắc ý! Ôi! Muội thực là phục hai tên dở hơi các huynh rồi!
Nàng hừ một tiếng, xoay người rời đi.
Hoàng đế Chính Đức xoa xoa lên chiếc quai hàm, nói:
- Đi, cùng trẫm đi Bắc Hải Tử tránh nắng, chúng ta chèo thuyền câu cá, câu mấy con cá chép tươi về cho Nhất Tiên làm súp cá, tay nghề của nàng cũng rất được đấy.
- Hoàng thượng không dỗ nàng sao? Hoàng thượng sợ nhất chính là tiếng rống của sư tử Hà Đông đó nha.
- Hài! Nàng cũng không giận thực sự, Trẫm mà cứ lúc nào cũng khẩn trương, nàng cũng sẽ chán. Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể gặp nhau, hơn nữa, nữ nhân mà, buồn vui thất thường, chính là như vậy.
- Đúng vậy nha, đúng vậy nha, Hoàng thượng nói quá đúng, không gặp được thì còn muốn, gặp nhiều quá thì phiền phức đến phát hoảng... À, đúng rồi, Hoàng thượng, thần hai ngày nữa sẽ kết hôn, dùng nghi lễ của Tây Dương để tổ chức, biết Hoàng thượng thích xem náo nhiệt, Người có đi hay không?
- Đi chứ, đi chứ, náo nhiệt thế này thiếu Trẫm làm sao được? Thuận đường đi xem Hoàng Am, Hoàng Am sắp xây xong rồi...Hoàng Am...Hoàng muội sắp dọn tới rồi...
Một đôi huynh đệ gian trá, vừa trò chuyện, vừa ngất nga ngất ngưởng đi xa dần.