Đây là một trong 7 ngọn núi được lưu truyền ở đây về độ linh thiêng, cũng như sự đáng sợ của nó, người dân ở đó đồn rằng: nơi nào có quỷ ngự, nơi đó cũng là nơi tiên phật sống. Đứa bé nằm đó chưa được bao lâu đã thu hút được bao nhiêu loại thú hoang dã tìm đến. Khí dưới chân núi lạnh lẽo u tối, những tiếng rít của gió tưởng chừng như ở cõi âm u dưới địa ngục vọng tới.
Khè... khè...
Trong hang sâu, đám rắn gần đó bò ra, con đầu đàn thân như bắp chân, dài 3 mét, trên đầu còn có cả sừng, những chiếc vây trên mình nó bóng bẩy, chắc mẩy. Nó là loại rắn lục sừng, độc nhất và hiếm gặp nhất, không biết nó đã sống ở đây bao lâu? Độ tuổi của nó có lớn hơn người không? Nó uốn éo lại bên đứa bé, ánh mắt nhìn đứa bé dò xét, sau đó còn luồn lách cuốn đứa bé gọn lại trong thân. Miệng há to, hai chiếc nanh nhọn hoắt như được giấu đâu đó trong vòm miệng giờ mới mang ra, chất độc cũng chảy ra từ 2 đầu răng nhọn, chỉ cần phập một phát thôi đứa bé đó cũng không kịp hét mà chết tươi. Sau đó nhất định nó sẽ uống máu đứa bé, đôi hàm sắc nhọn đó sẽ xé nát từng mảnh thịt tươi mới cho đám rắn con ăn. Nhưng khi vừa định làm điều đó thì nó ngưng lại, tức giận, há miệng lên trời hét lên giận dữ, đôi mắt đỏ như lửa cũng long lên sòng sọc. Nó trườn khỏi người đứa bé rồi bỏ đi, rắn chúa không dám đụng vào thì đám rắn nhỏ cũng không dám làm gì đứa bé. Đứa bé lúc này lại cười rồi, nụ cười ngây thơ trong sáng vang vọng đi cả vùng núi hoang vu, âm thanh vọng đến nỗi những con người sống trong những ngôi nhà đơn lẻ gần đó hoảng sợ phải lấy hương ra thắp khấn.
Sáng hôm sau, sẽ có vài người đi quanh chân núi lượm củi, hoặc đặt bẫy những con thú nhỏ về ăn hoặc đổi lấy gạo. Đi tới một đoạn thì đôi vợ chồng có vẻ lớn tuổi mới nhìn thấy đứa bé, người vợ không ngần ngại lên bên cạnh ẵm đứa bé lên, phủi phủi những cái lá cây, những cái bụi bẩn lấm lem cho nó. Miệng nở nụ cười tấm tắc khen:
— Trời ơi, con nhà ai mà thấy cưng quá à...
Bà vợ cứ cưng nựng với đứa bé, còn người chồng nhìn quan cảnh xung quanh quan sát:
— Ở đây đâu có ai ở, sao ai lại bỏ nó ở đây chứ?
— Hay mình mang nó về nuôi đi ông, chứ bỏ đây tội quá, chắc ai mới bỏ đây mà.
Người chồng đồng ý:
— Nhà mình còn không đủ ăn lấy gì nuôi thêm nó, đem nó về gởi nó vào chùa thôi.
- Ờ, Vậy cũng được ông.
Ông chồng cũng nhanh chóng kéo tay bà vợ rời đi, vùng núi này ban ngày còn dám mon men nhặt củi, kiếm con thú nhỏ chứ khi mặt trời gần tắt không ai đủ can đảm mà bén mảng đến đây đâu. Đứa bé cứ nằm gọn trong tay bà vợ, đôi mắt nhắm nghiền cảm nhận sự yên bình ấm áp.
Đi ra khỏi núi 1 đoạn, vợ chồng kia mới gặp 1 người đàn ông thân mang đồ bà ba nâu, tóc búi cao, râu ria rậm rạp, dáng người dong dỏng cao, trên lưng còn đeo 1 cái gùi tre nhỏ, trong đó có vài cây thuốc. Người đàn ông mới chào hỏi lịch sự:
- Chào hai vị.
Nhìn qua dáng vẻ đạo mạo, người chồng cũng đoán được đây là người làm thuốc, vì những cây thuốc trong giỏ của ông nói lên điều này. Người chồng lên tiếng:
- Chào thầy, thầy cũng đi núi sớm quá ha...
- Ông bà ôm con đi núi cũng sớm ha...
Bà vợ cười tươi, hơi thẹn:
- Con đâu mà con, vợ chồng tôi già rồi, con cái lớn hết rồi. Đứa bé này tôi nhặt được dưới chân núi, nên định mang vào chùa cho, chứ vợ chồng tôi nghèo, không nuôi nổi.
Người đàn ông lên tiếng:
- Vậy cho tôi xin đi, tôi nuôi nó sau này nó kế nghiệp nghề thuốc của tôi.
- Vậy tốt cho nó quá, tôi xin trao nó cho thầy.
Người đàn ông nhận lấy đứa trẻ từ tay người vợ, bọn họ chào tạm biệt nhau. Hai vợ chồng kia đi rồi, người đàn ông mới nhìn vào đứa bé, bỗng nhiên ông bấm đốt ngón tay nhìn ra số mệnh của nó, dùng thần thông tới nhà nó. Những cảnh tượng hiện ra trong thần nhãn khiến người đàn ông này lắc đầu, chép miệng:
— Muộn rồi, không kịp nữa rồi.
Sau đó ông ấy ẵm đứa bé rời khỏi nơi hoang vu, rừng thiên đất độc này.
Lúc này tại nhà con lớn của dì Năm, anh Tân hàng xóm đang gọi lớn. Mỗi ngày con trai lớn của dì đều rủ anh Tân hàng xóm đi lưới chung, sáng nay không thấy nên anh Tân mới qua nhà gọi:
— Đạt ơi, dậy đi, sao sáng nay mày dậy muộn thế.
Gọi vài tiếng nhưng không ai mở cửa, nên anh Tân đẩy cửa vào, nhà ở đây đêm lại không ai khoá cửa hết, tại ai cũng nghèo như nhau lấy đâu ra tài sản giá trị mà khoá cửa. Khi cánh cửa mở ra, trong nhà còn khá tối, cái mùi tanh tưởi sộc lên mũi nồng nặc, nó khiến anh Tân quay ngược ra bên ngoài nôn thốc nôn tháo. Anh chửi:
— Trời đất, cái mùi gì kinh chết mẹ đi được.
Nôn xong, anh Tân mới hướng mắt nhìn vào bên trong, ánh sáng lờ mờ cũng đủ để anh thấy chuyện gì xảy ra. Anh Tân chạy ngược ra đường hô lớn:
— Có chuyện bà con ơi, nhà dì Năm có chuyện rồi...
Hàng xóm mới cùng nhau kéo đến, mấy người đàn ông dũng cảm mới dám bước vào bên trong, ngay mũi họ phải bịt kín mấy lớp khăn rằn. Ngay gần cửa, dì Năm nằm chết ngay đó, khuôn mặt vẫn còn vẹn nguyên sự hoảng sợ. Phần bụng rách toát, bộ đồ lòng đổ hết ra nền đất, ruồi nhặn bu bám thấy ghê. Còn chưa kể bên phần cánh tay cũng bị gặm nham nhở. Máu chảy ra đọng lại chỗ dì Năm nằm 1 vũng sềnh sệt. Bọn họ cố gắng né những thứ bầy nhầy trên nền đất, bước tiếp xuống phía dưới. Ngay cửa buồng ngang bếp, xác anh Đạt nằm ngang đó, thân thể bị xé làm đôi, đầu bị nhai nham nhở, sọ chảy cả ra ngoài, toàn thân cũng không nguyên vẹn nữa. Vợ anh Đạt thì nằm chênh vênh nữa trên giường, nữa dưới đất, mà nói vậy cũng không đúng lắm, nữa thân trên thì nằm dưới đất, còn lại một phần thân dưới nằm sót lại trên giường. Xung quanh nhà là từng thớ thịt vụn, xương xụn rải quanh nhà, mắc lên cả trên đồ đạc, có nơi chỉ còn nữa cái đầu con nít mắc lại trên vách tre, chủm tóc máu khô đóng lại thành cục. Điều đáng nói là không một ai còn mắt nữa. Những người đi vào mới thi nhau chạy nhanh ra ngoài, nôn thốc nôn tháo. Họ dù can đảm cũng không đủ kiên nhẫn ở lại đó thêm nữa, bởi cả đời họ chưa từng thấy những cảnh tượng đáng sợ này bao giờ. Nhà dì Năm chết thảm lắm, không ai biết tại sao họ lại chết, bởi không ai nghe được một tiếng hét nào phát ra từ phía nhà họ. Là ai giết họ? Hay một thế lực siêu nhiên nào khác?
Những người hàng xóm khi nghe kể về cái chết của nhà dì Năm bắt đầu tản ra, ai về nhà nấy, bởi vì họ sợ liên luỵ, họ sợ nếu dính vào họ cũng sẽ bị ma quỷ trả thù, sợ sẽ có cái kết không khác gì nhà dì Năm. Thậm chí họ hàng bà con nhà dì Năm cũng sợ, cũng không ai dám đứng ra hốt xác để mai táng. Biết là thương đó, nhưng họ thương thân họ hơn.
Nhà dì Năm để vậy được mấy bữa thì thối ình lên cả xóm, không ai chịu nổi mùi xác đang phân huỷ, chưa kể chuột đói bò vào rỉa xác tha ra ngoài kiểu gì cũng bệnh cả xóm. Họ mới bàn nhau xuống mời thầy bảy Tí giúp họ giải quyết vấn đề. Lúc thầy bảy Tí xuống, lấy cây kiếm pháp của mình dán lá bùa làm phép gì đó rồi chỉ vào trong nhà đọc vài câu chú mà hông ai hiểu gì hết trơn. Múa may quay cuồng một lúc thầy bảy phán:
— Tôi đã nói nhà này bị tai tinh, giờ chỉ còn cách đốt nhà này, sau đó tôi sẽ yểm bốn lá bùa vào 4 góc nhà để yêu khí không thể lan ra ảnh hưởng đến bà con được nữa.
Cả xóm mừng ran hoan hỉ, vỗ tay quá chừng, nhưng ông thầy bảy Tí nói tiếp:
— Tôi xưa nay làm việc gì cũng phải tính công, công cán không đủ tôi không làm đâu.
Cả xóm nhìn nhau hoang mang, giờ thầy không yểm thì biết làm sao mà sống. Họ xưa nay sinh ra lớn lên trên cái đất cù lao này rồi, nếu bỏ xứ đi thì biết đi đâu, rồi mồ mã ông bà ai mà chăm sóc cho. Thế là có người đứng ra, mót chét được nhiêu bỏ vào cái nón cũ bấy nhiêu, của ít góp nhiều cũng thành lớn. Một người đại diện đứng ra đưa cho thầy bảy Tí:
— Chúng tôi nghèo, gom góp được nhiêu đây, cũng nhờ thầy giúp cho cái cù lao này được yên bình.
Mắt liếc qua cái nón lá cũ, mấy đồng lẻ lơi xơi ngó cũng bộn à, thầy bảy Tí hốt hết đám vật chất trong nón cho vào túi rồi mới hô lớn:
— Chất củi, đốt nhà.
Coi như được cứu, mọi người lại cùng nhau kiếm củi khô chất vào xung quanh nhà dì Năm, ông thầy bảy Tí cầm ngọn đuốc cháy rực mà châm lửa. Ai nấy nhìn ngôi nhà dì Năm cháy mà mừng thầm, sau này họ lại được sống yên ổn rồi.
Chờ cho nhà dì Năm cháy rụi, ông thầy bảy Tí mới cho đào quanh bốn góc nhà rồi chôn xuống đó 4 lá bùa. Làm như vậy để cho vong hồn chết oan ức, chết thảm nhà dì Năm thoát ra chọc phá mọi người. Điều cuối cùng, ông thầy bảy Tí còn cho mọi người lấp đá đầy lên trên căn nhà cũ này, những đám xương cháy cũng bị chôn vùi dưới lớp đá to.